1. Tướng Yết Kiêu: Nổi tiếng với tài bơi lặn và thủy chiến, được xem là "người hùng sông nước" thời Trần.

Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế (1242–1303), quê ở làng Hạ Bì xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (nay là xã Yết Kiêu, TP Hải Phòng). Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ làm nghề chài lưới và bán hàng nước bên bờ sông Quát. Cuộc sống bần hàn trên sông nước từ nhỏ đã hun đúc nên Phạm Hữu Thế một biệt tài vô song: bơi lặn cực giỏi, có thể lặn dưới nước trong thời gian rất lâu.

Tương truyền trong dân gian, ông từng nuốt lông của trâu thần, từ đó có sức khỏe phi thường và khả năng đi lại dưới nước như đi trên đất bằng. Với tài năng và sức vóc hơn người, ông trở thành gia nô trung thành và là một trong năm tùy tướng tài giỏi nhất của Hưng Đạo Vương (cùng với Dã Tượng, Cao Mang, Đại Hành, Nguyễn Địa Lô). Tên gọi Yết Kiêu là tên của một loài kình ngư ở biển Đông do Trần Hưng Đạo đặt, cũng là tên một loài chó săn lặn giỏi, thể hiện địa vị xuất thân nô tỳ (theo cách gọi trong Đại Việt sử ký) nhưng lại được sử dụng để tôn vinh biệt tài của ông.

Lòng trung thành của Yết Kiêu được sử sách ghi lại qua câu chuyện nổi tiếng trong Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285).
Khi thế giặc mạnh, quân Trần phải rút lui chiến lược. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn muốn rút quân bằng thuyền theo đường sông. Lúc đó, Dã Tượng và Yết Kiêu được giao nhiệm vụ giữ thuyền và tùy tùng. Dã Tượng đi theo Vương, còn Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân. Khi quân ta thua trận, Hưng Đạo Vương định rút theo đường bộ, Dã Tượng liền tâu: "Bẩm đức ông, Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền."

Nghe lời Dã Tượng, Hưng Đạo Vương cùng quân sĩ tìm đến bến sông. Quả nhiên, Yết Kiêu vẫn kiên trì giữ thuyền, chờ chủ tướng, bất chấp hiểm nguy. Lòng trung thành sắt son này đã giúp Hưng Đạo Vương thoát khỏi vòng vây hiểm nghèo của giặc.

Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (lần 2 và lần 3), Yết Kiêu đã phát huy tối đa biệt tài thủy chiến của mình.

Vào những đêm tối trời, Yết Kiêu được giao nhiệm vụ bí mật. Ông cùng đội quân "người nhái" tinh nhuệ lặn xuống sông, sử dụng dùi sắt đục thủng hàng loạt thuyền chiến của địch. Thuyền giặc Nguyên Mông vốn lớn, khi bị đục lỗ và nước tràn vào sẽ chìm rất nhanh, gây tổn thất nặng nề về lực lượng và tinh thần thủy binh địch. Địch quân hoang mang tột độ vì không hiểu tại sao thuyền cứ chìm dần mà không hề có dấu hiệu bị tấn công từ bên ngoài.

Khi bị giặc bắt trong một lần chặn giặc bảo vệ Trần Hưng Đạo, quân Nguyên tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng không thành. Chúng tra hỏi ông về những kẻ đã đục thuyền. Yết Kiêu đã dùng mưu trí để thoát thân. Ông đáp:
“Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ một mình tôi vì kém cỏi chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra, tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt."

Đám giặc tin theo, dùng thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý, Yết Kiêu nhảy tùm xuống nước, lặn sâu và trốn thoát về doanh trại quân ta, tiếp tục chiến đấu.

Cuối cùng, Yết Kiêu đã góp công lớn vào các trận đánh quyết định như trận Tây Kết (1285) và trận chiến sông Bạch Đằng (1288) lịch sử.

Yết Kiêu được vua Trần trọng thưởng, phong tước Hầu và chức vụ lớn là Triều Trần Hữu Tướng Đệ Nhất Bộ Đô Soái Thủy Quân (Đô soái Thủy quân số một của triều Trần).

Sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi, Bảng nhãn Lê Đỗ được triều Trần cử sang Nguyên triều đi sứ, mong nối lại hoà khí với nước mạnh hơn mình mà mang lại hoà bình cho nhân dân đất Việt. Yết Kiêu vốn là võ tướng thuỷ quân được cử làm tướng hộ vệ Lê Đỗ.

Yết Kiêu là một trong những mỹ nam tử nổi danh thời Trần vì tài giỏi hơn người lại khôi ngô tuấn tú nên đã lọt vào mắt của công chúa Ngọc Hoa của nước Nguyên. Ông liền từ chối khéo và thưa vua Nguyên rằng để trở về tâu xin vua Đại Việt, nếu vua Đại Việt đồng ý thì sẽ xin sang Nguyên triều làm lễ cưới.

Trở về đất nước, vua quan triều Trần lo lắng sẽ mất một viên tướng tài giỏi nên không đồng ý. Công chúa Nguyên triều đợi mãi không thấy Yết Kiêu sang thì xin vua cha cho sang đất Đại Việt để làm lễ thành hôn với Yết Kiêu. Biết tin này, vua quan nhà Trần đã báo tin Yết Kiêu qua đời khi công chúa Nguyên triều mới đi đến vùng biển Quảng Đông giáp biên giới Đại Việt.

Công chúa vô cùng thương xót Yết Kiêu, bèn thuê người tạc tượng mình thả xuôi sang nước ta, lập đàn cầu siêu cho linh hồn Yết Kiêu bên bờ biển tỉnh Quảng Đông và cầu nguyện: “Thiếp và chàng sống trên trần thế chưa nên duyên chồng vợ, nay chàng không còn nữa, thiếp nguyện thác xuống âm phủ để gặp chàng và nên nghĩa vợ chồng”, rồi gieo mình từ đàn cầu siêu xuống biển Quảng Đông để tỏ lòng chung thuỷ. Hai võ quan và chín nàng hầu cũng nhẩy xuống biển tự vẫn để theo hầu công chúa...

Ngoài công chúa Nguyên, ông cũng từ chối hai người con gái khác là quận chúa Đinh Lan và An Tư công chúa, ông ở vậy đến cuối đời vì một mối tình bi thuong với một cô thôn nữ, trong một trận đánh, người con gái đã lấy thân mình đỡ cho Yết Kiêu một mũi tên để rồi mất ngay trên tay của Yết Kiêu. Từ đó trái tim của vị danh tướng đã mãi mãi đi theo người con gái này.

Yết Kiêu qua đời vào ngày 28 tháng Chạp năm Quý Mão (1303), hưởng thọ 61 tuổi. Để ghi nhớ công lao và lòng trung nghĩa của ông, vua Trần đã cho lập đền thờ tại quê hương, bên bờ sông Đò Đáy, gọi là Đền Quát thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, Hải Dương (nay là xã Yết Kiêu, TP Hải Phòng). Ông được người dân tôn làm Thành hoàng làng, và hàng năm đều tổ chúc lễ hội để ghi nhớ công ơn cuả vị tướng tài ba, mãi mãi là biểu tượng của lòng dũng cảm, mưu trí, trung thành và thủy chung.

Tướng quân Yết Kiêu hiện nay chính là Bắc Đẩu.