PDA

View Full Version : Sự giống nhau giữa cuộc đời, sự nghiệp của Vua Đinh Tiên Hoàng và Vua Tần Thủy Hoàng



Trái tim dũng cảm
08-01-2013, 23:34
Chào Thầy và các anh chị em trên diễn đàn KCTL,
Qua tìm hiểu tôi đã khám phá ra một số thông tin thú vị về Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng, (húy là Đinh Bộ Lĩnh) - vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. và muốn chia sẻ với Thầy và các anh chị em trong diễn đàn. Tuy nhiên có một vấn đề chưa có lời giải đáp chuẩn xác nhất đó là về cái chết của Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng và con cả Đinh Liễn. Tôi cũng đã tìm hiểu nhưng có nhiều giả thiết đặt ra và nhiều người nghiêng về giả thiết là Lê Hoàn cấu kết với Thái hậu Dương Vân Nga để hại nhà Đinh…Xin nhờ Thầy nếu có thể thì cho con và mọi người biết sự thật về cái chết của Hoàng đế được không ạ?
Đọc và tìm hiểu mới thấy cuộc đời và sự nghiệp vua Đinh Tiên Hoàng có nhiều điểm giống với Tần Thủy Hoàng (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A7n_Th%E1%BB%A7y_Ho%C3%A0ng) của Trung Quốc và xin chia sẻ những điểm giống nhau ở dưới đây:
1/ Tên gọi Tiên Hoàng hay Thủy Hoàng đều có ý nghĩa là Hoàng đế đầu tiên. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế mở nền chính thống đầu tiên của nước Việt thống nhất, Tần Thủy Hoàng là hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa (http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_Hoa).
2/ Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm: Đinh Tiên Hoàng (968 - 979), Tần Thủy Hoàng (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A7n_Th%E1%BB%A7y_Ho%C3%A0ng) (221 - 210 TCN).
3/ Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều có vương hiệu: Thuỷ Hoàng là Tần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Sự thăng tiến trong danh hiệu này không chỉ là thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân mà còn đều đánh dấu sự thay đổi của lịch sử quốc gia. Từ thời nhà Chu (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_Chu), các vua đứng đầu thiên hạ (thiên tử) đều chỉ xưng vương, các chư hầu thời Chiến Quốc (http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_Qu%E1%BB%91c) cũng chỉ xưng vương, từ Tần Thủy Hoàng chính thức xưng hoàng đế là sự thay đổi "nâng bậc" về danh hiệu của vua đứng đầu thiên hạ. Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự: từ khi giành độc lập trở lại thời họ Khúc (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D_Kh%C3%BAc_(l%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Vi%E 1%BB%87t_Nam)), những người cầm quyền ban đầu đều chỉ xưng Tiết độ sứ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFt_%C4%91%E1%BB%99_s%E1%BB%A9) với tư cách "trưởng quan" cai trị một vùng lãnh thổ thuộc về Trung Quốc (http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_Qu%E1%BB%91c). Tới nhà Ngô (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_Ng%C3%B4), các vua mới xưng vương và tới Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_%C4%91%E1%BA%BF), cũng là sự thay đổi lớn, tạo dấu ấn trong lịch sử quốc gia như Tần Thủy Hoàng.
4/ Xây dựng đất nước: Đinh Tiên Hoàng xây dựng thành Hoa Lư (http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_L%C6%B0) bằng cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, Tần Thuỷ Hoàng (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A7n_Thu%E1%BB%B7_Ho%C3%A0ng) xây dựng Vạn Lý Trường Thành cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu. Cả hai đều lập đô ở những vùng núi non hiểm trở.
Đinh Tiên Hoàng Đế và Tần Thủy Hoàng Đế cùng trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán (dẹp nội chiến) để lập nên một đất nước thống nhất, tự chủ, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền.
Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân (http://vi.wikipedia.org/wiki/Lo%E1%BA%A1n_12_s%E1%BB%A9_qu%C3%A2n). Loạn 12 sứ quân là một giai đoạn loạn lạc của lịch sử Việt Nam (http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Vi%E1%BB%87t_Nam), xen giữa nhà Ngô (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_Ng%C3%B4_Vi%E1%BB%87t_Nam) và nhà Đinh (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_%C4%90inh). Giai đoạn này hình thành và phát triển mạnh từ khi Dương Tam Kha (http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_Tam_Kha) cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng và đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư (http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_L%C6%B0). Sau đó, ông cùng con trai là Đinh Liễn (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh_Li%E1%BB%85n) sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_L%C3%A3m) ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình (http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i_B%C3%ACnh)). Đinh Bộ Lĩnh cưới Trần Nương và trở thành con rể của Trần Minh Công. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_Ng%C3%B4) và các sứ quân khác. Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương.
Loạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944-968). Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_C%E1%BB%93_Vi%E1%BB%87t) - nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên trong lịch sử. thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc (http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFc_thu%E1%BB%99c).
Cả Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng pháp luật nghiêm khắc.
4/ Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A7n_Th%E1%BB%A7y_Ho%C3%A0ng) khi mất đều đương quyền hoàng đế, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền binh rơi vào tay quyền thần. Hai triều đại mà hai hoàng đế sáng lập đều ngắn ngủi.
Theo Đại việt sử ký toàn thư, Vua Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông. Trong đó được nhắc đến nhiều là hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga (http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_V%C3%A2n_Nga) và bà tổ nghề may Nguyễn Thị Sen (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Sen).
Về các con Vua Đinh Tiên Hoàng, các sử chép thống nhất có 3 con trai Đinh Liễn (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh_Li%E1%BB%85n), Đinh Hạng Lang, Đinh Toàn (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh_To%C3%A0n). Riêng con gái vua không chép rõ ràng nhưng căn cứ vào các thần tích tại nhiều đền thờ có thể thấy ít nhất vua có 4 con gái là: Công chúa Phất Kim (được thờ ở đền thờ công chúa Phất Kim (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_th%E1%BB%9D_c%C3%B4ng_ch%C3%BAa_P h%E1%BA%A5t_Kim) khu di tích cố đô Hoa Lư (http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%91_%C4%91%C3%B4_Hoa_L%C6%B0)), Công chúa Phù Dung (được thờ ở đình Phù Sa, xã Viên Sơn thị xã Sơn Tây Hà Nội (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i)), Công chúa Minh Châu là vợ của Trần Thăng, em sứ quân Trần Lãm (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_L%C3%A3m) và Công chúa Liên Hoa (được thờ ở đình Trâm Nhị, Ân
Thi, Hưng Yên (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C6%B0ng_Y%C3%AAn)).
Hy vọng mọi người tiếp tục sưu tầm và tìm hiểu về các bài viết về lịch sử Việt Nam để giúp chúng ta ngày càng hiểu rõ hơn về lịch sử nước nhà.
Và xin gửi tới mọi người video clip rất hay về Lịch sử Việt Nam: Dải đất hình chữ S đang rất nổi tiếng trên mạng.

https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=XMJzxA2OCf0#!
Chúc Thầy và các anh chị em sức khỏe và thành công.

Thông tin bài viết: wikipedia