Kết quả 1 đến 2 của 2
Chủ đề: Nhà Trần đến với Đạo Phật
-
15-08-2023, 21:34 #1
Học trò
- Ngày tham gia
- Sep 2012
- Đang ở
- Hà Nội
- Bài viết
- 133
- Cảm ơn!
- 4,423
- Thanked 3,104 Times in 131 Posts
Nhà Trần đến với Đạo Phật
Núi Yên Tử từ lâu nổi tiếng vì được coi là đất Phật, gắn liền với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Người sáng lập cũng là Sư Tổ đầu tiên của Thiền phái là vua Trần Nhân Tông, hiệu Điều Ngự Giác Hoàng. Vị vua thứ 3 đời Trần này được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, từng lãnh đạo nhân dân cả nước đánh bại quân Nguyên, bến Tây Kết giết Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt Ô Mã. Thế nhưng đạo Phật và cả Yên Tử đã đến với các vị vua và tôn thất nhà Trần khá lâu trước đó.
Năm 1226, Trần Cảnh (sau này là vua Trần Thái Tông) được 8 tuổi, nhờ thế lực của ông chú Trần Thủ Độ đưa vào hầu nhà vua lúc bấy giờ là cô bé Lý Chiêu Hoàng, hơn Cảnh 1 tuổi. Vì cùng trang lứa nên Chiêu Hoàng chỉ thích gần gũi trò chuyện, trêu đùa với Trần Cảnh rất vui vẻ, thân thiết. Nhân đó, Trần Thủ Độ xe duyên cho hai người lấy nhau, rồi Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, xuống làm hoàng hậu. Cuộc hôn nhân hai vị vua đầu tiên trong lịch sử đã mang lại cuộc chuyển giao quyền lực êm thấm không đổ máu giữa hai triều đại, từ đó vương triều nhà Trần bắt đầu.
Nhà vua trẻ đã có thời gian sống hạnh phúc với nữ hoàng, bạn thời thơ ấu của mình. Năm 1233, đứa con trai đầu lòng của họ được sinh ra nhưng chết yểu, sau đó Chiêu Hoàng không có mang nữa. Trần Thủ Độ vì lo lắng cho tương lai của triều Trần đã ép nhà vua bỏ vợ mà lấy công chúa Thuận Thiên (vợ của Trần Liễu anh ruột vua), lúc đó có mang 3 tháng. Trần Liễu uất ức khởi binh dọc theo sông Hồng lên đánh kinh thành.
Lòng tràn đầy đau khổ, một tối Trần Cảnh đã cùng mấy người tùy tùng bỏ hoàng cung mà đi lên Yên Tử. Đến nơi, nhà Vua bỏ ngựa leo núi, gặp sư trụ trì là Hòa thượng Pháp Vân, khóc mà than rằng: “Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên trẫm mới lên núi, chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm gì khác”.
Hoà thượng đáp: “Trong núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng và trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ bên ngoài”.
Ngày hôm sau, Trần Thủ Độ cùng quan quân lên đón nhưng vua không chịu về. Thủ Độ liền sai người làm luôn hành quán dưới chân núi họp các quan ở đó, không ai về Thăng Long. Hòa thượng Pháp Vân cầm tay nhà Vua mà nói: "Phàm làm đấng minh quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ không về sao được?”
Vua Thái Tông theo Trần Thủ Độ trở về Thăng Long, đem chiến thuyền đóng trên sông mà chặn Trần Liễu. Trần Liễu cô thế, phải giả làm người đánh cá đến gặp em để đầu hàng. Trần Thủ Độ biết tin, đến muốn chém Liễu. Vua Thái Tông dùng thân mình che chở cho anh, Trần Thủ Độ giận, ném thanh gươm xuống sông mà bỏ đi. Trần Liễu thoát chết, nhưng thủ hạ đi theo mấy nghìn người đều bị giết. Sau Trần Liễu được phong ấp ở An Sinh (An Sinh Vương), tìm hào kiệt trong thiên hạ về dạy dỗ người con trai là Quốc Tuấn để báo thù.
Vua Thái Tông về kinh đô, có thời gian rảnh rỗi đều chuyên tâm vào việc nghiên cứu kinh sách, đến cuối đời đã thành một học giả uyên bác, khởi đầu cho truyền thống nghiên cứu Phật học của các vị vua triều Trần.
(Còn nữa)View more the latest threads:
- Tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Nguyên...
- Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ...
- Trần Bình Trọng - Danh tướng Thà làm quỷ...
- Tóm lược: Tiểu sử Đức vua- Phật hoàng Trần...
- Nhà Trần đến với Đạo Phật
- Câu chuyện Ước mơ của vua Trần Nhân Tông
- Công chúa An Tư và khoảng trống tư liệu lịch...
- Thái Sư Trần Thủ Độ
- Tìm hiểu về Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang...
- Tìm hiểu về CHIÊU VĂN VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT
Lần sửa cuối bởi Tamhuongthien, ngày 17-08-2023 lúc 09:00. Lý do: sửa chính tả
Không đúng - sai, mà hợp lý hay chưa!
-
26 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Tamhuongthien
bần tăng (17-08-2023),cảnh thắng (17-08-2023),Diệu Hồng (25-08-2023),haixuyentb (17-08-2023),Hanhthong (21-08-2023),Hạnh An (17-08-2023),Hieuhoc (22-08-2023),HoangSyHiep (19-08-2023),lê chí công (21-08-2023),Lê Minh (19-08-2023),manhtuongngo (17-08-2023),Một điều lành (17-08-2023),Merci (18-08-2023),MinhTam8 (21-08-2023),nganuoc (07-10-2023),Phương Nam (17-08-2023),tam_thuc (17-08-2023),Thanh Quang (18-08-2023),thanhphong (20-08-2023),THANHTINH (24-08-2023),theoThầy (05-09-2023),TuMinh (22-08-2023),Vidieu (17-08-2023),youme (17-08-2023),Đức Thành (25-08-2023),Đức Tin (27-11-2023)
-
30-08-2023, 16:34 #2
Học trò
- Ngày tham gia
- Sep 2012
- Đang ở
- Hà Nội
- Bài viết
- 133
- Cảm ơn!
- 4,423
- Thanked 3,104 Times in 131 Posts
Phần 2: Tuệ Trung Thượng Sỹ
Phần tiếp theo: Tuệ Trung Thượng Sỹ
Có thể nói, Trần Thái Tông - vị vua đầu tiên của triều Trần đến với Phật giáo như một cách giải cứu nỗi đau khổ nội tâm, đến việc Trần Nhân Tông đến với Phật giáo với tư cách người sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, cũng như từ mối thù sinh tử của An Sinh Vương Trần Liễu đến sự hòa hợp giữa hai họ nhà Trần dưới thời Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có một gạch nối rất quan trọng. Đó là Tuệ Trung Thượng Sỹ.
Tuệ Trung tên thật Trần Tung (1230 - 1291), là con trưởng của An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm (vợ vua Trần Thánh Tông sau này). Ông là tôn thất nhà Trần với tước Hưng Ninh Vương và là một thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 (1285), Tuệ Trung cùng Hưng Đạo Vương đem hơn hai vạn quân đánh bại tướng nhà Nguyên là Vạn hộ Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt (sông Cầu). Trong cuộc kháng chiến lần thứ 3 (1287-1288), ông được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, từng đến đồn trại đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá. Sau khi kháng chiến thành công, ông được phong chức Tiết độ sứ trấn giữ cửa biển Thái Bình. Không lâu sau ông lui về ấp Tịnh Bang, lập Dưỡng Chân trang (nay thuộc xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) để theo đuổi nghiệp thiền.
Tuệ Trung khí lượng thâm trầm, phong thần nhàn nhã, bản tính thuần hậu, như người sinh ra để học đạo vậy. Thủa còn để chỏm Tuệ Trung đã mến mộ cửa Thiền. Sau đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Tinh xá Phước Đường, lĩnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm Thầy. Hàng ngày, Tuệ Trung thường lấy Thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm sở thích. Hòa ánh sáng với thế tục, Tuệ Trung thường sống hòa đồng, sẵn lòng truyền dạy chánh pháp cho người có duyên, được nhiều cao tăng đồng đạo kính trọng.
Mến mộ danh tiếng và đạo học của Tuệ Trung, vua Thánh Tông đã tặng ông danh hiệu Thượng Sỹ (Thượng sỹ có nghĩa như Bồ Tát), tôn làm đạo huynh và nhờ cậy dạy dỗ Thái tử Trần Khâm (sau này là vua Trần Nhân Tông).
Tư tưởng thiền nhập thế khi đất nước có chiến tranh thì đứng lên đánh giặc, hòa bình rồi lại lui về tu thiền; “hòa quang đồng trần” gắn việc hành thiền với đời sống thế tục; coi trọng giác ngộ bản tâm, không câu lệ hình thức vào việc “trì giới và nhẫn nhục” của Tuệ Trung Thượng Sỹ thật cao thâm, mở ra phương cách đời đạo song tu đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Có lẽ chính tư tưởng thiền ấy, cùng với tinh thần trung quân ái quốc và lối sồng hòa đồng bác ái của Tuệ Trung đã góp phần hóa giải mối thù sinh tử của Cha và đem lại sự hòa hợp giữa hai họ Trần dưới thời Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Tư tưởng thiền ấy cũng được tâm truyền cho Sư tổ Trần Nhân Tông và tiếp nối mãi về sau trong Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tư tưởng thiền đó được Sư Tổ Trần Nhân Tông viết trong sách Tuệ Trung Thượng Sỹ ngữ lục:
“Riêng tôi (Sơ tổ Trúc Lâm) nay cũng nhờ ơn Thượng Sĩ dạy dỗ. Lúc tôi chưa xuất gia, gặp tuần tang của Đinh Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân thỉnh Thượng Sĩ. Thượng Sĩ trao cho tôi hai quyển lục Tuyết Đậu và Dã Hiên. Tôi thấy lời nói thế tục quá sanh nghi ngờ, bèn khởi tâm trẻ con trộm hỏi rằng: “Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?” Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
“Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.” Thượng Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy:
Vô thường các pháp hạnh
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
*
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.
Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: “Tuy nhiên như thế, vấn đề tội phước đâu đã rõ ràng.” Thượng Sĩ lại dùng kệ để giải rõ:
Ăn rau cùng ăn thịt
Chúng sanh mỗi sở thuộc
Xuân về trăm cỏ sanh
Chỗ nào thấy tội phước?
Tôi thưa: “Chỉ như gìn giữ giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng lại thế nào?” Thượng Sĩ cười không đáp. Tôi lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ để ấn định đó:
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
*
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?
Ngài lại dặn nhỏ tôi: “Chớ bảo cho người không ra gì biết.” Tôi biết môn phong của Thượng Sĩ cao vót. Một hôm tôi xin hỏi Ngài về “bổn phận tông chỉ”, Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.) Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy.
Ôi! Tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm, cử chỉ thẳng thắn uy đức. Ngài bàn huyền nói diệu, trong lúc gió mát trăng thanh, những hàng thạc đức đương thời đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch hạnh thật khó lường được.”
Tuệ Trung Thượng Sỹ mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão (1291), thọ 62 tuổi, an táng tại Dưỡng Chân Trang. Khu di tích lịch sử Tịnh thất Dưỡng Chân hiện ở làng Mỹ Cụ, xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Trong trang viên này có Điện thờ tọa lạc trên núi Rùa (còn có tên khác là núi Dưỡng Chân), hiện thờ 3 cha con danh tướng và danh nhân lịch sử triều Trần gồm: An Sinh vương Trần Liễu (giữa); Tuệ Trung Thượng sỹ (bên trái) và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (bên phải).
Cuối thế kỷ XX, giới sử học và Phật học Việt Nam đã phối hợp tổ chức hội thảo khoa học về Tuệ Trung Thượng Sỹ. Các cuộc hội thảo đều đánh giá cao tài năng, đức độ, công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Khẳng định ông không chỉ là một nhà Thiền học bậc thầy của nước ta mà còn là một nhà tư tưởng, chính trị, triết học, quân sự, văn hóa, ngoại giao lỗi lạc của nhà Trần thế kỷ thứ XIII.Không đúng - sai, mà hợp lý hay chưa!
-
9 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Tamhuongthien
bần tăng (31-08-2023),Một điều lành (26-10-2023),nganuoc (07-10-2023),Phương Nam (31-08-2023),theoThầy (05-09-2023),Trung Nghĩa (30-08-2023),TuMinh (31-08-2023),Vidieu (31-08-2023),Đức Tin (27-11-2023)