Kết quả 1 đến 4 của 4
Hybrid View
-
29-10-2010, 04:01 #1
.
B/ Tìm hiểu về Bát Cổ
1/ Bà chúa Sao Sa – Nguyễn Thị Ngọc Toàn
a/ Theo tài liệu lịch sử
Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền, tên vua ban là Tinh Phi tức là Sao Sa. Là người con gái tài sắc, thông minh đức độ hơn người, sinh vào cuối thế kỷ 16 trong một gia đình hiếu học ở vùng quê địa linh nhân kiệt, huyện Chí Linh, Hải Dương. Ngay từ thuở niên thiếu, bà đã tỏ ra là người có bản lĩnh và quyết đoán, được gia đình mời thầy đến dạy học. Đến tuổi trăng tròn, trong làng có người hỏi làm vợ nhưng bà không ưng, mà còn làm một bài thơ nôm mang tính diễu cợt trả lời.
Đầu năm Quang Hưng thứ 16 (1593), quân Lê Trịnh tấn công vùng Nam Sách, Chí Linh, nhà Mạc thất thủ phải rút chạy khỏi Hải Dương lên Cao Bằng lập căn cứ. Năm đó, Nguyễn Thị Duệ theo cha chạy lên Cao Bằng theo vua Mạc. Tuy vậy, bà vẫn chăm chỉ học hành, thể hiện là người có chí lớn.
Tại Cao Bằng, nhà Mạc mở khoa thi hội, kén chọn nhân tài, bà đã đóng giả trai đi thi và đỗ đầu, được vua Mạc mời vào dự yến tiệc. Nhà vua thấy diện mạo giống phụ nữ, xét hỏi biết sự thật đã không xử tội mà còn khuyến khích và liền lấy làm vợ. Khoảng năm Vĩnh Tộ thứ 7 (1625), quân Lê Trịnh do Đinh Văn Tả tiến đánh Cao Bằng, quân Mạc đại bại, Nguyễn Thị Duệ bị bắt. Trước tình thế nguy nan đó, bà vẫn bình tĩnh nói với quân sỹ nhà Trịnh: “Các người đã bắt được ta nên đưa ta đến gặp chúa các ngươi, không được vô lễ. Nếu có vô lễ chỉ có thanh kiếm này thôi, mà rút cục các ngươi cũng chẳng công trạng gì.”
Quân sỹ lấy làm lạ, dẫn vào tiến Chúa, bà liền được quý mến, trọng dụng. Chúa Trịnh ban lệnh chỉ: Tiền đóng góp về binh lính, thuế tô ruộng công, thuế đò, thuế chợ cùng các thứ thuế khác để cho bà làm bổng lộc. Từ đó về sau, trải qua 20 năm, dân làng không những sưu sai tạp dịch được miễn trừ mà còn được cấp 100 quan tiền và 2 mẫu ruộng tốt là bổng lộc của bà. Sự việc này được ghi trong tấm bia Lập cử tự bi tại chùa Phổ phiếu, xã Kiệt Đặc, khắc năm Thịnh Đức nguyên niên (1653), khi bà còn đang sống. Trong số lộc điền dọc theo sông Kinh Thầy, bà trích 10 mẫu để thưởng cho những tân tiến sỹ của làng để cấy cày thu hoa lợi, nhằm khuyến khích mọi người học tập. Nhân dân Kiệt Đặc từ trên chí dưới đều kính trọng, tôn bà làm hậu thần.
Bà còn là người rộng xem kinh sách, thông suốt Phật giáo, hưởng bổng lộc nhiều nhưng sống rất thanh đạm. Bà lập ra quy ước: những ngày giỗ tổ nội ngoại, ngày sinh, ngày hoá của bà khi bà trăm tuổi đều dùng cỗ chay, oản quả cúng lễ. Lệ đó truyền mãi về sau. Khi tuổi đã cao, bà về trụ trì chùa Vụ Nông, huyện Gia Lâm.
Khi thân quân Hoằng Tổ Dương Vương lên ngôi, bà lại được các quan trong triều cho vời vào cung để dạy học cho các cung nhân và gọi bà là Đức Lão Lễ Sư. Bà còn là người khéo khuyến khích người dân học tập. Đến đời Trung Hưng, phong trào văn học được mở mang, nhiều người ở Chí Linh đỗ đại khoa là nhờ bà, trong đó làng Kiệt Đặc có tới 3 người đỗ tiến sỹ ở thế kỷ 17.
Với tài sắc vẹn toàn, đức độ, bà được người xưa ca ngợi như bà Nghiêu Thuấn trong giới phụ nữ, thần tiên trong cõi đời. Bà qua đời ngày 8 tháng 11, khi đã ngoài 80 tuổi. Sau khi qua đời, di hài của bà được mai táng bên cạnh mộ tổ. Đến cuối triều Lê, tháp mộ của bà được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ - nghĩa là một trong di tích cổ nổi tiếng của huyện Chí Linh.
b/ Từ những nguồn thông tin khác.
Tương truyền trước khi về nghỉ,do cảm mến tài đức của bà mà nhà Vua đã cho bà một ân huệ : “ Bà muốn xin điều gì cũng được chấp thuận.”
Bà chúa Sao Sa nói :
- Muôn tâu bệ hạ,quê thần ở vùng sông nước hay bị lũ lụt,nên dân chúng rất nghèo,xin bệ hạ chuẩn y cho thần một việc : Thần xin đứng ở ngã ba sông này mà thả giải yếm của mình xuống sông,nếu giải yếm tạt vào bờ ở chỗ nào thì sẽ khoanh một vùng từ chỗ đấy đến chỗ thần đứng, và xin bệ hạ miễn thuế cho dân trong vùng.
Nhà vua gật đầu : Chuẩn tấu.
Bà chúa tháo ngay giải yếm của mình ra rồi buộc vào một quả bưởi và ném xuống sông.Quả bưởi đã trôi đi được một đoạn rất xa rồi mới tạt vào bờ.Theo như ước nguyện của bà chúa,toàn bộ dân trong vùng đó được miễn thuế.Sau này nhiều làng trong vùng này đã lập đền thờ để ghi nhận tấm lòng thương người,yêu dân của bà.Nhiều làng trong khu vực ấy đã lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn của bà,dân chúng gọi bà là Bà chúa Sao Sa.Tháp mộ của Bà có tên là Tinh phi Cổ tháp.
Nên NQT có thơ rằng :
Cổ Tháp Tinh Phi đứng giữa trời,
Sao Sa ngày ấy sáng muôn nơi.
Tam Vương nhất kính,xuyên trần thế,
Giải yếm buông trôi,ấm vạn người.
2/ Thầy Chu Văn An
a / Theo tài liệu lịch sử
Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).
Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.
Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. Ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.
Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa.
Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.
Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời vua Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại Phương Hoàng Sơn thuộc làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.
Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên, gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phượng Sơn đã giải thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".Ông được phong là “ Vạn đại Sư biểu” tức là “Người Thầy của muôn đời”.
b/ Từ những nguồn thông tin khác
+ Khi khấn Thầy Chu Văn An mà đọc đầy đủ tất cả thì phải khấn là : Kính lạy,Thần y dược-Tôn sư Đại học sĩ-Tư nghiệp Quốc Tử Giám-Thủy cốc Tiên sinh-Bát cổ nhị Hoàng hoa.Thầy không chỉ là một người Thầy mẫu mực mà Thầy còn là Thần Y Dược.
+ Khi về ở ẩn tại đất Côn Sơn thì 3 năm đầu tiên Thầy ở trên mảnh đất cách đường quốc lộ hiện nay khoảng 250m.Mảnh đất này hiện nay gia đình cô Sở đang ở.Sau 3 năm cày cấy sinh sống ở đây, Thầy mới chọn núi Phượng Hoàng làm nơi mở trường dạy học và làm thuốc chữa bệnh.Thầy sống tại núi Phượng Hoàng cho đến cuối đời.Nơi Thầy Chu Văn An ở ẩn có tên là Tiều ẩn Cổ bích.
Nên NQT có thơ rằng :
Cổ Bích Ông tiều,ẩn nơi đây,
Phượng Hoàng đứng đó với trời mây.
Sớ dâng thất trảm,lòng chưa trọn,
Vạn năm còn với nước non này.
3 / Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
a/ Theo tài liệu lịch sử
Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh, thành bền vững. Lý Chiêu Hoàng vị vua cuối cùng của dòng họ Lý, đã nhường ngôi cho chồng nhưng vẫn bị trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị là nhà Trần cướp ngôi nhà Lý. Thái sư Trần Thủ Độ rất lo lắng trước tình hình này hơn nữa sau nhiều năm Lý Chiêu Hoàng lại chưa có thai.Bấy giờ An Sinh Vương Trần Liễu,là anh cả của vua Trần Cảnh, lấy công chúa Thuận Thiên,mà Thuận Thiên chính là chị gái Chiêu Hoàng.Biết Thuận Thiên đang có thai, Trần Thủ Độ đã ép An Sinh Vương Trần Liễu nhường vợ cho em ruột để chắc chắn nhà vua có con nối dõi.An Sinh Vương Trần Liễu phản ứng, còn Vua Trần Cảnh không đồng ý làm điều trái đạo đó.Lúc ấy thế lực của Trần Thủ Độ rất mạnh và ông ta lại đang nắm giữ binh quyền, nên ý đồ này vẫn phải thực hiện. An Sinh Vương Trần Liễu nổi loạn chống lại triều đình, nhưng bị Trần Thủ Độ đánh bại và phải chạy về Kiếp Bạc. Vì quá hận trong lòng mà Trần Liễu đã kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng “Phải lấy lại ngôi Vua cho nghành trưởng”. Người con trai đó chính là Trần Quốc Tuấn.
Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song Trần Quốc Tuấn đã tỏ rõ là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết trong dòng tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của sự đoàn kết toàn dân. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã chủ động thể hiện tình thân ruột thịt với Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải con trai của đức vua Trần Cảnh trước mặt mọi người.
Chuyện kể rằng:
+ Tại bến Đông,Trần Quốc Tuấn chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải...
+ Một lần, ông đem việc xích mích trong dòng họ thăm dò ý tứ các con, Trần Quốc Tảng có ý muốn đoạt lại ngôi vua từ nghành thứ , ông nổi giận rút gươm toan chém Quốc Tảng. Do có các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: “Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, bất trung này nữa ”!
+ Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Từ đó sự nghi kỵ cũng được chấm dứt.
Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan quân để từ đó yên được lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt ái quốc,trung quân.
Khi được Vua giao quyền Quốc công tiết chế, Trần Quốc Tuấn đã biết tập hợp người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... dưới trướng của ông. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng, bại,lẽ tiến, lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút – hùng văn".
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng đầy đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, mà trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Chính vì vậy cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.Chiến thắng giặc ngoại xâm,bảo vệ độc lập của dân tộc.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:
- Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
Ông đã trăng trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:
- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo Đại vương qua đời.
Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo Đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó có thể kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại vương.
Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam.
b/ Từ những nguồn thông tin khác
- Khi được nghỉ hưu,Trần Hưng Đạo đã trở về Kiếp Bạc trồng một vườn thuốc,vừa là để vui thú tuổi già vừa là để lấy thuốc chữa bệnh cho dân.Vườn thuốc của Ông có tên là Dược viên Cổ lĩnh.
Nên NQT có thơ rằng :
Cổ lĩnh Dược viên một vườn cây,
Ung dung dạo bước ngắm trời mây.
Vuốt râu,cười khẩy trông phương Bắc,
Ái quốc,trung quân một kiếp người
4/ Tam tổ Trúc lâm
a/ Đệ nhất sư tổ Trần Nhân Tông
1/ Theo tài liệu lịch sử
Ngài tên húy là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu, sinh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở địa vị cao sang, mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử. Ngài cố từ chối để nhường lại cho em, mà vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu và Trần Hưng Đạo cho Ngài, tức là Khâm Từ Thái hậu sau này. Sống trong cảnh quyền uy, hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.
Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Ðến chùa Tháp ở núi Ðông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.
Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy ở nơi rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.
Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử sách ngợi ca là vị anh hùng cứu nước là bậc "Vua hiền của nhà Trần... thuần túy đạo mạo, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng...
Thời gian Trần Nhân Tông trị vì, nước Đại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm,nhưng nhà Trần dưới quyền ông, quả là một thời thịnh trị.
Những nǎm đầu cầm quyền, Trần Nhân Tông đã phải trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Ông đã cùng vua cha Trần Thánh Tông, mở hội nghị quân sự Bình Than, phân công các tướng lĩnh đi đóng giữ những nơi hiểm yếu để chuẩn bị đón đánh các mũi tiến công của địch (1282). Ông lại cùng với cha tổ chức hội nghị Diên Hồng (1284) để hội tụ được sức mạnh của dân tộc, nhất trí trẻ già, một lòng quyết đánh. Chưa bao giờ tinh thần đánh giặc ở nước ta được phát triển mạnh như dưới thời vua Trần Nhân Tông. Cả nước sục sôi chuẩn bị, quân sĩ tỏ thái độ quyết không đội trời chung với địch. Và quả nhiên quân ta đã ra quân là chiến thắng, còn địch thì thất bại thảm hại. Trận Bạch Đằng (9-4-1288) đại thắng đã đè bẹp ý đồ bành trướng của đế quốc Nguyên Mông, đế quốc cường bạo nhất hồi bấy giờ, đã chiến thắng từ Âu sang A', song chúng không làm gì xoay chuyển nổi tình thế ở Việt Nam. Chiến công này là của toàn dân, của những vị nguyên soái, đại tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão v.v... Song công lao đầu thuộc về hai cha con Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Trong cả 2 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông hai ông đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân lãnh đạo nhân dân Đại Việt vượt qua bao khó khǎn gian khổ, đưa cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
Những khi giặc Nguyên sang quấy rối, Trần Nhân Tông phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, nhà vua đã hai lần chỉ huy cuộc kháng chiến (1285, 1288) đánh đuổi được quân Nguyên- Mông một đế quốc hùng mạnh bậc nhất lúc bấy giờ, giữ gìn trọn vẹn giang sơn đất nước. Dưới triều đại Trần Nhân Tông, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: Hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị các bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, quyết tâm chống giặc.Đây là hai hội nghị thể hiện được sách lược “ Đoàn kết toàn dân,trên dưới một lòng” quyết tâm chống giặc ngoại xâm,bảo vệ đất nước.
Khi đất nước sạch bóng quân thù, Trần Nhân Tông đã chú trọng đến việc khuyến khích trồng dâu nuôi tằm, chiêu mộ dân khai khẩn ruộng hoang, mở rộng các công trình thủy lợi, đại xá cho thiên hạ. Nơi nào bị địch tàn phá thì tha sưu thuế, những nơi khác thì giảm thuế hoặc miễn theo thứ bậc khác nhau . Ông luôn luôn nhắc các quần thần phải biết thương dân. Có lần ông trực tiếp phân xử phải trái cho những người dân đón đường thưa kiện, vạch rõ cái sai của quan lại, cận thần. Ông rất trân trọng sự đóng góp to lớn của tướng sĩ, quân dân đối với ba cuộc kháng chiến.
Một nét độc đáo riêng của Trần Nhân Tông so với nhiều nhà vua khác là ông rất thích du lịch, ông thường tổ chức những chuyến đi xa, vừa để trò chuyện, thuyết lý về những quan điểm triết học, tôn giáo của ông, vừa để thu thập thêm nhiều kiến vǎn trong hay ngoài nước.
Trần Nhân Tông không những chỉ là một vị vua giỏi, một anh hùng cứu nước mà ông còn là một nhà vǎn xuất sắc, có công lớn đối với nền vǎn học quốc âm. Từ đời nhà Lý trở về trước, cho đến các triều vua Trần: Thái Tông, Thánh Tông không có một tác phẩm vǎn chương quốc ngữ nào. Những Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố mới chỉ nghe tên chứ chưa tìm ra tác phẩm. Đến cuối thế kỷ 13, chỉ có Trần Nhân Tông với bài phú "Cư trần lạc đạo" là mở trang đầu cho cuốn sách sưu tầm vǎn học quốc âm của thời đại.
Ngài thường ăn chay lạt, thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của Tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.
Con người Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, thông suốt nội điển (kinh) và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Ðối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.
Sau 14 nǎm làm vua, năm Quí Tỵ ( 1293 )Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, Ngài lên làm Thái thượng hoàng, lúc đó mới có 35 tuổi.Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được 6 năm,Ngài sắp đặt việc xuất gia.
Ðến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó.
Ðến năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những miếu thờ thần không chính đáng, và dạy họ tu hành thập thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia.Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.
Ngày mùng một tháng giêng năm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Ðăng Lục, sai Quốc sư Ðạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, cho những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không phải chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị Thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Ðăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi.
Từ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”
. Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bồ-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự bảo mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Pháp Loa rồi dạy : “Phải khéo gìn giữ”.
Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng:
Âm:
Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân.
Dịch:
Số đời một hơi thở
Lòng người hai biển vàng
Cung ma dồn quá lắm
Cõi Phật vui nào hơn.
Ðến ngày mười bảy, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ Hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Ðây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngày mười tám, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sinh. Thấy nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Ðến am Ngọa Vân, Ngài dặn hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.”
Ngày mười chín, Ngài sai Thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sái đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sái quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Ðêm ấy Bảo Sái nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành.
Ngày hai mươi mốt, Bảo Sái đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Ðối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.”
Sau khi dặn dò Bảo Sái xong,Điều Ngự Giác hoàng nằm ở am Ngọa vân ( thuộc chùa Bảo Sái ngày nay ) mà viên tịch, niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu (1308), thọ năm mươi mốt tuổi.
Pháp Loa theo lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm xá lị (ngọc cốt) có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước xá lị về tôn thờ nơi Ðức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Ðại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Ðầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Ðiều Ngự Tổ Phật.
Thiền pháiTrúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc nhất trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam.Trần Nhân Tông thực sự là một triết gia lớn của Phật học, giúp triết học Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ thể hiện đầy đủ trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam. Lý thuyết của phái Trúc Lâm do Ông khởi xướng là không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, không ép xác khổ hạnh, mà đề cao nhân nghĩa, giáo dục lòng nhân đạo, không phân biệt giàu sang, luôn luôn nhớ đến cội nguồn.
Với chủ trương “Cư trần mà lạc Đạo”, cứ ở cõi đời mà vui đạo và hoàn toàn có thể tu luyện tốt trong khi chúng ta vẫn phải lo toan những công việc trần tục. Đây là một quan điểm tôn giáo sâu sắc và rất tiến bộ “Đời-Đạo song tu”.Việc đầu tiên của tu đạo theo quan điểm này là hãy làm một người tốt,một người thẳng thắn trung thực biết hạn chế lợi ích của cá nhân vì lợi ích của cộng đồng của dân tộc.Hãy tìm phật ở chính Tâm của mình và hãy sử dụng ngay sức mạnh ấy, nguồn năng lượng vô tận ấy để cải tạo cuộc đời trần tục này.Tu luyện để làm cho cuộc sống trần tục của chúng ta tốt đẹp hơn lên.
“Đạo Phật cấm sát sinh song giết giặc cứu dân không có gì trái đạo…,ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối, ở đâu tu cũng được lúc nào tu cũng được,tu thì lâu cạo đầu mấy chốc,thứ nhất tu tại gia thứ hai tu chợ thứ ba tu chùa.”
Người đương thời và sau đó đã tạc tượng Trần Nhân Tông. Tượng ở Yên Tử, đặt trong Huệ Quang Kim tháp, là một pho tượng khỏe mạnh, rắn chắc, cân đối, đầy sức mạnh và nghị lực, còn ở chùa tháp Phổ Minh (Nam Định) tượng có vẻ ung dung thanh thản, hợp với con người nhà vua. Trần Nhân Tông đã bước vào cõi Niết Bàn, nhưng còn để lại hình ảnh của một chiến sĩ, một thi nhân, một triết nhân của dân tộc.
Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần.Để ca ngợi vị Vua anh minh,vị Phật Việt Nam này,tinh hoa của Thiền phái trúc lam việt Nam đã được thể hiện trong đôi câu đối sau, vừa ngắn gọn vừa nói lên nhiều điều để chúng ta xuy ngẫm và học tập.
Dạy dân tu Thiền giáo,yêu đạo - yêu đời,
Dẹp giặc độ chúng sinh,làm Vua – làm Phật.
2/ Từ những nguồn thông tin khác
- Kể từ năm 1308 sau khi nhập niết bàn,đệ nhất Sư tổ của Thiền phái trúc lâm Yên tử luôn đau đáu việc đi tìm truyền nhân cho bổn phái.Thế rồi Ngài đã tìm được.
Thiên thu nay đã thỏa ước nguyền,
Gươm thiêng trao trọn với niềm tin.
“ Định pháp vô minh” ta truyền lại,
Cho con giữ mãi một đức tin.
Yên Tử Ngày 30/3/2006
- Hiện nay Sư tổ là người chủ trì việc “ Hoằng dương Phật pháp” tại Việt Nam.
b/ Đệ nhị Sư tổ : Pháp Lòa
1/ Theo tài liệu lịch sử.
Ngài tên thật là Đồng Kiên Cương, sinh năm Thiệu Bảo thứ sáu (1284) ngày mùng 7 tháng 5, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trước khi sinh Ngài, mẫu nằm mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm, bà thích lắm nhận lấy. Từ đó, bà biết có thai. Vì trước kia bà sinh liền tám người con gái nên chán ngán, phen này bà cố tình uống thuốc phá thai, nhưng đều vô hiệu. Đến khi sinh ra Ngài, bà mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Ngài thiên tư dĩnh ngộ, miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá.
Niên hiệu Hưng Long thứ mười hai (1304), Điều Ngự Giác Hoàng(Trần Nhân Tông) đi các nơi, phá dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng) và ban pháp dược, đến mạn sông Nam Sách. Ngài đến lễ bái xin xuất gia, năm này Ngài mới hai mươi mốt tuổi. Điều Ngự trông thấy bằng lòng, nói: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí, vui vẻ tự đến đây.” Điều Ngự bèn cho hiệu là Thiện Lai, dẫn về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn cạo tóc và thọ giới Sa-di. Sau đó cho đến tham vấn với Hòa thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, Ngài tìm đủ cách thưa hỏi mà không được khai ngộ. Ngài tự đọc bộ kinh Hải Nhãn (có lẽ kinh Lăng Nghiêm) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ khách trần ở sau, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Ngài ngộ ra. Ngài từ tạ Hòa thượng Tánh Giác, trở về tham yết với Điều Ngự.
Gặp lúc Điều Ngự thượng đường, Ngài ra thưa hỏi, Điều Ngự nhận biết bèn cho Ngài theo hầu hạ . Một hôm, Ngài trình cả ba bài tụng, đều bị Điều Ngự chê cả. Ngài thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham vấn lấy. Ngài vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy hoa đèn tàn rụng xuống, Ngài chợt đại ngộ
Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Điều Ngự đưa Ngài lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát. Thấy chỗ tham học của Ngài đã thành đạt, Điều Ngự cho hiệu là Pháp Loa.
Năm Hưng Long thứ mười lăm (1307), Ngài được hai mươi bốn tuổi, Điều Ngự trụ ở am Thiên Bảo Quan có bảy tám người Thị giả mà Ngài là đứng đầu. Điều Ngự giảng Đại Huệ Ngữ Lục cho Ngài. Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bồ-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự bảo mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Ngài rồi dạy : “Phải khéo gìn giữ”.
Năm Hưng Long thứ mười sáu (1308) vào ngày mùng một tháng giêng, Ngài vâng lệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp Trụ trì tại nhà Cam Lồ chùa Siêu Loại. Khai lễ có vua Anh Tông và đình thần đến dự. Điều Ngự lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Ngài giảng đạo. Lễ xong, Điều Ngự giao cho Ngài kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử.Ngài là Tổ đời thứ hai của phái Trúc Lâm Yên Tử. Điều Ngự còn trao cho Ngài hơn hai trăm bộ kinh sử và bảo Vua Anh Tông sung cúng vào chùa cả trăm khoảnh ruộng.
Tháng mười một năm ấy (1308), Điều Ngự tịch, Ngài phụng mạng cung nghinh xá-lợi về kinh đô. Trở về núi, Ngài soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.
Năm Hưng Long thứ mười chín (1311), Ngài phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh. Ngài giao cho Bảo Sái làm chủ việc này. Tháng tư, Ngài giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó, Huyền Quang trình kiến giải, đều được Ngài chấp nhận.
Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (1313) vào tháng 9, Ngài phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang định chức cho Tăng đồ. Chúng Tăng từ đây mới có sổ bộ, chính Ngài là người cầm sổ bộ ấy. Lúc đó, Ngài độ cho hơn một ngàn vị Tăng. Về sau cứ ba năm một lần độ Tăng như thế.
Năm Đại Khánh thứ tư (1317) đời Trần Minh Tông, vào tháng 2, Ngài bị bệnh nặng. Ngài đem y bát và viết bài tâm kệ trao cho Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít hôm, bệnh Ngài được lành.
Những hàng Thái hậu, Công chúa, Vương công, quí khanh đều thỉnh Ngài truyền giới xuất gia hoặc giới Bồ-tát, cho đến vua Trần Anh Tông cũng được Ngài xem như đệ tử. Mọi người đua nhau cúng đất, vàng, tiền để Ngài lập chùa, đúc tượng Phật, in kinh quá nhiều, đến nỗi Ngài phải tự xin giảm dần những số quyên cúng, thuyền của Vua cấp cho Ngài tiện việc đi lại và về kinh đô, Ngài cũng từ chối không nhận.
Năm đầu Khai Hựu (1329) đời Trần Hiến Tông, Ngài mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn, làm thành danh lam thắng cảnh.
c/ Đệ Tam Sư Tổ Huyền Quang
1/ Theo tài liệu lịch sử.
Ngài tên Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ là Huệ Tổ dòng dõi quan lại, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà Ngài ở phía nam chùa Ngọc Hoàng. Năm Ngài sinh, một hôm thầy Trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư Huệ Nghĩa tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội đông đủ, Kim cang Long thần đủ cả, Phật chỉ Tôn giả A-nan bảo: “Ngươi thác sanh làm pháp khí cõi đông.” Có ông đạo gõ cửa, ông chợt tỉnh giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa:
ÂM:
Nhân chi vị đạo khởi tha tầm
Tâm tức Phật hề Phật tức tâm
Huệ địch kiết tường vi ảnh hưởng
Thử sanh tất kiến hảo tri âm.
DỊCH:
Người mà vì đạo chớ tìm đâu,
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu.
Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng,
Đời này ắt gặp bạn tâm đầu.
Thuở nhỏ Ngài dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mến yêu,được dạy cho nhiều học thuật. Ngài học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ 2 (1274), đời vua Trần Thánh Tông, Ngài thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy mới có hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Ngài, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả Công chúa cho, Ngài vẫn từ chối.
Ngài được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương kiến thức của Ngài vượt hơn hẳn sứ Trung Hoa, khiến cho họ phải nể phục.
Một hôm, Ngài theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Ngài chợt tỉnh ngộ rồi tự ngẫm: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới Tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quí như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên lưu luyến!”
Ngài mấy phen dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua cũng rất mến trọng Phật giáo, nên cuối cùng cũng cho Ngài xuất gia. Đến niên hiệu Hưng Long thứ 13 (1305), Ngài xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm Thị giả Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, được Điều Ngự đặt pháp hiệu là Huyền Quang.
Niên hiệu Hưng Long thứ 17 (1309), Ngài theo hầu Pháp Loa, theo như lời phó chúc của Điều Ngự. Ngài vâng lệnh, trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Ngài đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học trò bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên, không dưới ngàn người.
Ngài thường phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm Kinh, Công Văn v.v… Những khoa giáo trong nhà thiền mọi thứ đều do Ngài xem,duyệt cả.
Ngày rằm tháng giêng năm Quí Sửu (1313) vua Anh Tông mời Ngài về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Ngài dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân dịp này, Ngài lập ngôi chùa ở phía tây nhà Ngài lấy hiệu là chùa Đại Bi.
Ngài trở về chùa Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Ngài nên cho Điểm Bích là một cung nữ cố tìm mọi cách để gần gũi Ngài,và lấy được bằng chứng đem về dâng Vua. Điểm Bích dùng gian kế gợi lòng dục của Ngài,nhưng chưa bao giờ Điểm Bích thành công. Trong những buổi lễ chẩn tế của Ngài, thường thấy xuất hiện những sự linh nghiệm lạ thường,từ đấy nhà vua không còn nghi ngờ gì nữa.
Năm Đại Khánh thứ tư (1317), Ngài được Pháp Loa truyền y bát và giao tâm kệ .
Năm 1330, khi Tổ Pháp Loa tịch, Thiền sư Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, bấy giờ Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Tuy nhận trọng trách lãnh đạo Giáo hội, song vì già yếu nên Ngài ủy thác mọi việc cho Quốc sư An Tâm, trở về trụ trì ở Côn Sơn Tự.
Đệ nhị Sư tổ trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm. Sau đó sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Đệ nhị Sư tổ viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám mươi tuổi.
Vua Trần Minh Tông phong thụy là TRÚC LÂM THIỀN SƯ ĐỆ TAM ĐẠI, đặc phong TỪ PHÁP HUYỀN QUANG TÔN GIẢ.
b/ Từ những nguồn thông tin khác.
- Là một Thiền sư đồng thời là một học giả uyên thâm,chỉ với 4 câu thơ Ngài đã dạy bảo học trò hiểu được những lẽ cao siêu của Thiền phái :
Đời đạo song tu mấy kiếp người,
Gieo niềm hạnh phúc đã bao nơi.
Vui mà hành thiện,tâm con thiện,
Buồn mà hành thiện,con thiện tâm.
Yên Tử Ngày 30/3/2006
- Sư tổ luôn luôn hết lòng vì học trò,theo dõi dạy bảo học trò ở mọi nơi mọi lúc.Khi thấy học trò chăm chỉ và thành đạt,Ngài vui lắm.Khi đến thăm học trò,thấy học trò đang luyện tập Ngài đã tặng thơ :
HUYỀN huyền,ảo ảo một cõi trần,
QUANG minh chiếu rọi khắp muôn dân.
SƯ tăng thiền định,tâm hướng Phật,
Tổ tông truyền dạy được mấy nhân.
Kết luận :
Thiền phái Trúc lâm Yên Tử là một phái của đạo Phật tại Việt Nam,có qui mô sâu rộng,có ảnh hưởng mãi mãi đến tư duy tâm linh của dân tộc.
Huyền Thiên Cổ Tự là nơi mà Tam tổ Trúc lâm đã tu luyện,đã hành đạo
Nên NQT có thơ rằng :
Cổ tự Huyền Thiên,thông vẫn xanh,
Chênh vênh sườn núi,điểu nghe kinh.
Lan xa,tiếng mõ khua rừng vắng,
Hay lòng Tam tổ độ chúng
/View more the latest threads:
- Chuyện BÂY GIỜ MỚI KỂ!
- Những kỷ niệm KHÔNG BAO GIỜ QUÊN
- Sự thật về VỤ ÁN LỆ CHI VIÊN!
- Sự thật về THÁNH VẬT SÔNG TÔ LỊCH !
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (Pc)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (P6)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (P5)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (p4)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ (P3)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ (P2)
Lần sửa cuối bởi NhuMai, ngày 28-04-2021 lúc 20:28.
Vui mà hành thiện,tâm con thiện
Buồn mà hành thiện,con thiện tâm
-
26 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới NguyetQuangTu
chieuthuvang08 (30-04-2014),dietmatam (12-09-2012),hangnt (19-06-2012),huongtamlinh (15-04-2011),mahalkita (10-12-2012),manhtuongngo (07-11-2013),nghiad99 (05-12-2012),nguoihoc (26-09-2022),Nguyễn Thành Công (03-10-2011),nhatcuunhan (28-03-2014),PhongThuyGia (27-05-2011),SONGHONG (20-10-2011),tanrau (16-09-2021),Thanh Bình (04-03-2014),thanhphong (25-09-2014),THANHTINH (07-09-2012),ThanhTrung90 (01-05-2013),thiện tai (27-08-2021),Thien Nghia (16-08-2014),Vidieu (12-06-2021),Đại Minh (07-01-2014),Đức Tin (17-07-2025)