Ai là người lãnh đạo Tâm linh -Việt Nam

Chủ đề: Ai là người lãnh đạo Tâm linh -Việt Nam

Tag: None
  1. NguyetQuangTu's Avatar

    NguyetQuangTu viết:

    Mặc định Ai là người lãnh đạo Tâm linh -Việt Nam

    I . ĐỊA LINH - NHÂN KIỆT
    I. A/ Tám ngôi đền có vai trò đặc biệt tại linh địa Côn Sơn.
    A / Đi tìm Bát Cổ
    Ngày 1/11/2004 ( 19/9/GT ) Buổi sáng Phật Bà nhắc :
    - Con phải đi Côn Sơn tìm về với Bát cổ.
    NQT đã rủ L V Đ, C T D và N V T đi cùng.16h chiều bắt đầu đi từ Hà Nội.
    Vì chưa có hiểu biết nhiều về linh địa Côn Sơn nên NQT đi Côn Sơn lần này chủ yếu là đi theo sự hướng dẫn của LVĐ.Trong giới khí công, người ta đã biết đến Bát cổ tại Côn Sơn,nhưng cũng chưa có ai đi đủ 8 đền này.
    Đây là 4 người theo học khí công đầu tiên đi đủ 8 ngôi đền thờ Bát Cổ. Đoàn đi theo thứ tự sau:
    1/ Tinh phi Cổ Tháp.
    Đây là đền thờ Bà chúa Sao sa Nguyễn Thị Duệ.
    2/ Huyền thiên Cổ Tự.
    Đây là ngôi chùa mà trước đây Tam tổ trúc lâm đã tu luyện.
    3/ Thượng tể Cổ Trạch.
    Đây là đền thờ Quốc phụ - Thượng tể Cổ trạch Trần Quốc Chẩn.
    4/ Kim qui Cổ Loan.
    Đây là đền thờ 5 anh em họ Vương,là 5 vị tướng dưới triều vua Lê Hoàn.
    5/ Long động Cổ Trai.
    Đây là đền thờ Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
    6/ Phao sơn Cổ Thành.
    Đây là đình làng,thờ Cao Lỗ Đại vương.Bên cạnh đình có chùa Phao sơn.
    7/ Tiều ẩn Cổ Bích.
    Đây là đền thờ Thầy Chu Văn An.
    8/ Dược viên Cổ Lĩnh.
    Đây là một vườn thuốc ở cạnh đền Kiếp Bạc mà trước kia Trần Hưng Đạo đã cho trồng .
    Giữa tháng 11/2004 Phật Bà lại bảo :
    - Con đi Côn Sơn tìm Bát cổ,nhưng lần này con nhớ phải đi cho đúng thứ tự.
    - Thưa phật Bà,lần trước con đã đi tìm Bát cổ rồi.Lần này con phải đi như thế nào mới đúng thứ tự ?
    - Con cứ lên đền thờ Bà chúa Sao Sa,đó là điểm thứ nhất.Bà chúa sẽ hướng dẫn con đi tiếp các điểm sau.
    - Ngày 24/11/2004 ( 13/10/GT ).Hai thầy trò,NQT và Hiếu tìm về với Bát cổ lần thứ hai.Thứ tự đi lần này là :
    1/ Tinh Phi Cổ tháp
    1h chiều đến Cổ tháp gặp bà Chúa Sao Sa.
    Bà chúa chữa bệnh cho,bà dặn 2h chiều phải có mặt ở chỗ Thầy Chu Văn An.
    2/ Tiều Ẩn Cổ bích. ( Đến nơi thì xe vừa hết xăng.)
    1h40h đến Cổ bích gặp Thầy Chu Văn An
    - Taị Lưu Quang điện : Thầy dạy dùng tượng binh bày trận đánh giặc.
    - 2h chiều tại đền thờ Thầy : Thầy dạy đánh cờ.
    - 2h40p lên linh mộ : Thầy dạy trận Ngũ hành Tinh mệnh.
    Học xong,NQT hỏi Thầy :
    - Thưa Thầy sau đây con phải làm gì ?
    Thầy cười rồi nói :
    - Việc đầu tiên là đi mua xăng.Đến 4h chiều phải có mặt ở Kiếp Bạc.
    3/ Dược viên Cổ lĩnh.
    4h10p thì đến Cổ lĩnh gặp Đại vương Trần Hưng Đạo,cụ giao cho :
    + Một bộ Võ phục và kiếm, với nhiệm vụ : Bảo vệ Bát Cổ.
    + Phải đọc sách Binh thư yếu lược.
    4h50p đi gặp Nam Tào và Bắc Đẩu.Tại hai đền thờ này đã được biết : Nam Tào chính là tướng quân Dã Tượng,Bắc Đẩu chính là tướng quân Yết Kiêu.Nam Tào nói : “Khi đi tìm mộ thì tốt nhất là nhờ chính vong linh đó dẫn đường”.
    7h tối tại nhà cô Sở, Thầy Chu Văn An dặn việc ngày hôm sau :
    + 8h sáng có mặt tại Huyền Thiên Cổ Tự.
    + 11h trưa có mặt tại Long đình.
    + 2h chiều có mặt tại Long Động Cổ Trai.
    + 4h chiều có mặt tại Thượng Tể Cổ Trạch.
    4/ Huyền Thiên Cổ Tự.
    Ngày 14/10/GT
    8h có mặt tại Cổ Tự , gặpTam tổ Trúc lâm :
    Tam tổ dạy : + Huyền Thiên Cổ trận,
    + Cho mỗi thầy trò một cây nến.
    + 10h phải đi xin gặp cụ Nguyễn Trãi.
    - 9h30p đã gặp cụ Nguyễn Trãi tại đền thờ Cụ,Cụ Nguyễn trãi cho: nhiều sách bút,cho một cái quạt giấy trên quạt có chép sách Kinh thi,cho một cái đồng hồ cát.Cụ nói : “ Ta không chỉ coi là học trò,mà còn coi như con.”
    - 11h lên đến Đền trung : Dọc đường mệt quá,hoa mắt,chân tay tê dại và ngã vật ra.Đúng lúc ấy thì ánh sáng từ trán phát sáng ra như cái đèn Pin.
    - 12h lên đến Long đình.Vừa lên đến nơi thì thấy được dẫn vào Lầu vàng và dự một kỳ thi tại đây,mỗi thí sinh ngồi thi ở một phòng riêng.Sau khi nộp bài một lúc thì thấy có một bông hồng bay về tay( có lẽ đây là cách chấm điểm của các Cụ ).
    Có người đến dẫn đi thay quần áo mới,sau đó được dẫn đến một kho sách.Tại kho sách NQT xin được rất nhiều sách.
    5/ Long Động Cổ Trai
    3h chiều về đến Cổ trai,gặp Cụ Mạc Đĩnh Chi.
    Cụ cho : + Rất nhiều sách.
    + Một búp măng tre nhỏ,một lọ thuốc nước,một bông hoa dâm bụt.
    Cụ dạy : “ Măng tre chấm vào thuốc nước dùng để đánh màng mắt,măng tre còn dùng để khai mở Ấn đường và Thiên nhĩ.Hoa dâm bụt bóc lấy nõn trắng ở trong đài hoa rồi dùng để lau màng mắt và dùng để luồn vào đường Ấn- Chẩm mà lau”. Việc này con phải tự tay làm để khai mở cho những người khó khai mở.
    + Ta chính thức nhận con làm học trò.
    6/ Thượng Tể Cổ Trạch
    5h chiều về đến Cổ Trạch gặp Cụ Trần Quốc Chẩn.
    Do trời mưa,đường trơn và quá mệt do phải đi bộ một quãng đường dài nên NQT đã đến muộn 1 tiếng so với kế hoạch.Đến nơi thì cửa đền đã đóng,đền này lại ở giữa cánh đồng nên không thể gọi ai được.NQT xin với cụ cho đặt lễ ở ngoài hiên đền và xin được làm việc.
    Cụ đồng ý : + Cho đặt lễ tại hiên đền.
    + Giao cho NQT bản đồ các mạch đất linh địa Côn Sơn.
    + Không làm việc bây giờ,9h sáng mai quay lại đây.
    Buổi tối Thầy Chu Văn An dặn :
    + Ngày mai 7h sáng phải có mặt ở Côn Sơn Tự.
    + 9 giờ đến Cổ Trạch.
    +11h đến Cổ Loan
    + 2h chiều đi Cổ Thành.
    + 4h chiều về Đền Gốm.
    Ngày 15/10/GT
    - 7h sáng tại Côn Sơn Tự : Được cạo tóc,tắm rửa, thay quần áo mới.Được Tam tổ trúc lâm tặng hoa và cử đi giảng bài.Được Thánh mẫu giải bớt nghiệp duyên.
    - 9h sáng tại Cổ Trạch.Thượng tể Cổ trạch Trần Quốc Chẩn :
    + Giảng cho NQT về các mạch đất tại linh địa Côn Sơn.
    + Cho NQT sách trạch cát.
    + Cho NQT một “cây mía” dùng để khai mở.
    7/ Kim qui Cổ Loan
    11h trưa đến Cổ Loan.
    - Tại chùa Cả : + Phật Bà cho 3 cái Kim tự tháp để đặt vào 3 đan điền
    + Thánh mẫu giao : Thiên tiên Kỳ lệnh...và cho biết hình ảnh sau này sẽ được ngồi đài sen.
    - Tại Đền cả, nơi thờ hai bà Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu : Được chữa bệnh ,và được tặng một bông hoa.
    - Tại Đền Cao,nơi thờ Thiên bồng Đại tướng quân Đại vương Vương Đức Minh : Được tặng một bộ giáp trụ màu trắng và một bông hoa.
    - Tại đền thờ Anh vũ Dũng lược Đại vương Vương Đức Hồng : Được tặng một thanh kiếm.
    - Tại đền thờ Dực thánh Linh ứng Đại vương Vương Đức Xuân : Được giao một Cờ lệnh và được dạy Kim Qui Cổ Loan trận.
    8/ Phao Sơn Cổ Thành
    3h chiều mới về đến Cổ Thành.
    Cao Lỗ Đại Vương : + Giao cho một cái ấn để chỉ huy đội quân bảo vệ và phục vụ Bát cổ.
    + Giao cho một quyển sách bìa cứng,dày,ngoài bìa có đề hai chữ BÁT CỔ ,nhưng giở ra thì vẫn là giấy trắng.
    Nguyệt Quang Tử hỏi Cụ : “ Cụ giao sách Bát Cổ cho con mà lại toàn giấy trắng,thì con đọc thế nào.”
    Cụ trả lời : “ Con hãy tìm hiểu rồi ghi chép lại sự tích về Bát cổ và phổ biến cho mọi người biết.”.
    4h chiều về đến Đền Gốm,đây là đền thờ Trần Khánh Dư.
    + Tại chùa Gốm : Khi ngồi luyện,khí phát xuống tê dại cả người,cơ thể đã được thanh lọc triệt để.
    + Tại Đền Gốm : Đại tướng Trần Khánh Dư cùng Quân đội mở tiệc lớn chiêu đãi.
    Nguyệt Quang Tử băn khoăn mãi không biết nên viết về Bát Cổ như thế nào.Cuối cùng NQT chọn phương án làm thơ để nói về các sự tích của Bát cổ,yêu cầu tự đặt ra là chữ đầu tiên của mỗi bài thơ phải là chữ CỔ.

    B / Tìm hiểu về Bát Cổ
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm
     
  2. NguyetQuangTu's Avatar

    NguyetQuangTu viết:

    Mặc định

    .
    B/ Tìm hiểu về Bát Cổ
    1/ Bà chúa Sao Sa – Nguyễn Thị Ngọc Toàn
    a/ Theo tài liệu lịch sử
    Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền, tên vua ban là Tinh Phi tức là Sao Sa. Là người con gái tài sắc, thông minh đức độ hơn người, sinh vào cuối thế kỷ 16 trong một gia đình hiếu học ở vùng quê địa linh nhân kiệt, huyện Chí Linh, Hải Dương. Ngay từ thuở niên thiếu, bà đã tỏ ra là người có bản lĩnh và quyết đoán, được gia đình mời thầy đến dạy học. Đến tuổi trăng tròn, trong làng có người hỏi làm vợ nhưng bà không ưng, mà còn làm một bài thơ nôm mang tính diễu cợt trả lời.
    Đầu năm Quang Hưng thứ 16 (1593), quân Lê Trịnh tấn công vùng Nam Sách, Chí Linh, nhà Mạc thất thủ phải rút chạy khỏi Hải Dương lên Cao Bằng lập căn cứ. Năm đó, Nguyễn Thị Duệ theo cha chạy lên Cao Bằng theo vua Mạc. Tuy vậy, bà vẫn chăm chỉ học hành, thể hiện là người có chí lớn.
    Tại Cao Bằng, nhà Mạc mở khoa thi hội, kén chọn nhân tài, bà đã đóng giả trai đi thi và đỗ đầu, được vua Mạc mời vào dự yến tiệc. Nhà vua thấy diện mạo giống phụ nữ, xét hỏi biết sự thật đã không xử tội mà còn khuyến khích và liền lấy làm vợ. Khoảng năm Vĩnh Tộ thứ 7 (1625), quân Lê Trịnh do Đinh Văn Tả tiến đánh Cao Bằng, quân Mạc đại bại, Nguyễn Thị Duệ bị bắt. Trước tình thế nguy nan đó, bà vẫn bình tĩnh nói với quân sỹ nhà Trịnh: “Các người đã bắt được ta nên đưa ta đến gặp chúa các ngươi, không được vô lễ. Nếu có vô lễ chỉ có thanh kiếm này thôi, mà rút cục các ngươi cũng chẳng công trạng gì.”
    Quân sỹ lấy làm lạ, dẫn vào tiến Chúa, bà liền được quý mến, trọng dụng. Chúa Trịnh ban lệnh chỉ: Tiền đóng góp về binh lính, thuế tô ruộng công, thuế đò, thuế chợ cùng các thứ thuế khác để cho bà làm bổng lộc. Từ đó về sau, trải qua 20 năm, dân làng không những sưu sai tạp dịch được miễn trừ mà còn được cấp 100 quan tiền và 2 mẫu ruộng tốt là bổng lộc của bà. Sự việc này được ghi trong tấm bia Lập cử tự bi tại chùa Phổ phiếu, xã Kiệt Đặc, khắc năm Thịnh Đức nguyên niên (1653), khi bà còn đang sống. Trong số lộc điền dọc theo sông Kinh Thầy, bà trích 10 mẫu để thưởng cho những tân tiến sỹ của làng để cấy cày thu hoa lợi, nhằm khuyến khích mọi người học tập. Nhân dân Kiệt Đặc từ trên chí dưới đều kính trọng, tôn bà làm hậu thần.
    Bà còn là người rộng xem kinh sách, thông suốt Phật giáo, hưởng bổng lộc nhiều nhưng sống rất thanh đạm. Bà lập ra quy ước: những ngày giỗ tổ nội ngoại, ngày sinh, ngày hoá của bà khi bà trăm tuổi đều dùng cỗ chay, oản quả cúng lễ. Lệ đó truyền mãi về sau. Khi tuổi đã cao, bà về trụ trì chùa Vụ Nông, huyện Gia Lâm.
    Khi thân quân Hoằng Tổ Dương Vương lên ngôi, bà lại được các quan trong triều cho vời vào cung để dạy học cho các cung nhân và gọi bà là Đức Lão Lễ Sư. Bà còn là người khéo khuyến khích người dân học tập. Đến đời Trung Hưng, phong trào văn học được mở mang, nhiều người ở Chí Linh đỗ đại khoa là nhờ bà, trong đó làng Kiệt Đặc có tới 3 người đỗ tiến sỹ ở thế kỷ 17.
    Với tài sắc vẹn toàn, đức độ, bà được người xưa ca ngợi như bà Nghiêu Thuấn trong giới phụ nữ, thần tiên trong cõi đời. Bà qua đời ngày 8 tháng 11, khi đã ngoài 80 tuổi. Sau khi qua đời, di hài của bà được mai táng bên cạnh mộ tổ. Đến cuối triều Lê, tháp mộ của bà được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ - nghĩa là một trong di tích cổ nổi tiếng của huyện Chí Linh.
    b/ Từ những nguồn thông tin khác.
    Tương truyền trước khi về nghỉ,do cảm mến tài đức của bà mà nhà Vua đã cho bà một ân huệ : “ Bà muốn xin điều gì cũng được chấp thuận.”
    Bà chúa Sao Sa nói :
    - Muôn tâu bệ hạ,quê thần ở vùng sông nước hay bị lũ lụt,nên dân chúng rất nghèo,xin bệ hạ chuẩn y cho thần một việc : Thần xin đứng ở ngã ba sông này mà thả giải yếm của mình xuống sông,nếu giải yếm tạt vào bờ ở chỗ nào thì sẽ khoanh một vùng từ chỗ đấy đến chỗ thần đứng, và xin bệ hạ miễn thuế cho dân trong vùng.
    Nhà vua gật đầu : Chuẩn tấu.
    Bà chúa tháo ngay giải yếm của mình ra rồi buộc vào một quả bưởi và ném xuống sông.Quả bưởi đã trôi đi được một đoạn rất xa rồi mới tạt vào bờ.Theo như ước nguyện của bà chúa,toàn bộ dân trong vùng đó được miễn thuế.Sau này nhiều làng trong vùng này đã lập đền thờ để ghi nhận tấm lòng thương người,yêu dân của bà.Nhiều làng trong khu vực ấy đã lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn của bà,dân chúng gọi bà là Bà chúa Sao Sa.Tháp mộ của Bà có tên là Tinh phi Cổ tháp.


    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ Tháp Tinh Phi đứng giữa trời,
    Sao Sa ngày ấy sáng muôn nơi.
    Tam Vương nhất kính,xuyên trần thế,
    Giải yếm buông trôi,ấm vạn người.


    2/ Thầy Chu Văn An
    a / Theo tài liệu lịch sử
    Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).

    Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.

    Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. Ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.

    Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.

    Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa.

    Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.
    Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời vua Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại Phương Hoàng Sơn thuộc làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.
    Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên, gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phượng Sơn đã giải thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".Ông được phong là “ Vạn đại Sư biểu” tức là “Người Thầy của muôn đời”.
    b/ Từ những nguồn thông tin khác
    + Khi khấn Thầy Chu Văn An mà đọc đầy đủ tất cả thì phải khấn là : Kính lạy,Thần y dược-Tôn sư Đại học sĩ-Tư nghiệp Quốc Tử Giám-Thủy cốc Tiên sinh-Bát cổ nhị Hoàng hoa.Thầy không chỉ là một người Thầy mẫu mực mà Thầy còn là Thần Y Dược.
    + Khi về ở ẩn tại đất Côn Sơn thì 3 năm đầu tiên Thầy ở trên mảnh đất cách đường quốc lộ hiện nay khoảng 250m.Mảnh đất này hiện nay gia đình cô Sở đang ở.Sau 3 năm cày cấy sinh sống ở đây, Thầy mới chọn núi Phượng Hoàng làm nơi mở trường dạy học và làm thuốc chữa bệnh.Thầy sống tại núi Phượng Hoàng cho đến cuối đời.Nơi Thầy Chu Văn An ở ẩn có tên là Tiều ẩn Cổ bích.

    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ Bích Ông tiều,ẩn nơi đây,
    Phượng Hoàng đứng đó với trời mây.
    Sớ dâng thất trảm,lòng chưa trọn,
    Vạn năm còn với nước non này.


    3 / Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
    a/ Theo tài liệu lịch sử
    Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh, thành bền vững. Lý Chiêu Hoàng vị vua cuối cùng của dòng họ Lý, đã nhường ngôi cho chồng nhưng vẫn bị trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị là nhà Trần cướp ngôi nhà Lý. Thái sư Trần Thủ Độ rất lo lắng trước tình hình này hơn nữa sau nhiều năm Lý Chiêu Hoàng lại chưa có thai.Bấy giờ An Sinh Vương Trần Liễu,là anh cả của vua Trần Cảnh, lấy công chúa Thuận Thiên,mà Thuận Thiên chính là chị gái Chiêu Hoàng.Biết Thuận Thiên đang có thai, Trần Thủ Độ đã ép An Sinh Vương Trần Liễu nhường vợ cho em ruột để chắc chắn nhà vua có con nối dõi.An Sinh Vương Trần Liễu phản ứng, còn Vua Trần Cảnh không đồng ý làm điều trái đạo đó.Lúc ấy thế lực của Trần Thủ Độ rất mạnh và ông ta lại đang nắm giữ binh quyền, nên ý đồ này vẫn phải thực hiện. An Sinh Vương Trần Liễu nổi loạn chống lại triều đình, nhưng bị Trần Thủ Độ đánh bại và phải chạy về Kiếp Bạc. Vì quá hận trong lòng mà Trần Liễu đã kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng “Phải lấy lại ngôi Vua cho nghành trưởng”. Người con trai đó chính là Trần Quốc Tuấn.
    Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song Trần Quốc Tuấn đã tỏ rõ là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết trong dòng tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của sự đoàn kết toàn dân. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã chủ động thể hiện tình thân ruột thịt với Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải con trai của đức vua Trần Cảnh trước mặt mọi người.
    Chuyện kể rằng:
    + Tại bến Đông,Trần Quốc Tuấn chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải...
    + Một lần, ông đem việc xích mích trong dòng họ thăm dò ý tứ các con, Trần Quốc Tảng có ý muốn đoạt lại ngôi vua từ nghành thứ , ông nổi giận rút gươm toan chém Quốc Tảng. Do có các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: “Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, bất trung này nữa ”!
    + Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Từ đó sự nghi kỵ cũng được chấm dứt.
    Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan quân để từ đó yên được lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt ái quốc,trung quân.
    Khi được Vua giao quyền Quốc công tiết chế, Trần Quốc Tuấn đã biết tập hợp người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... dưới trướng của ông. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.
    Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng, bại,lẽ tiến, lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút – hùng văn".
    Trần Quốc Tuấn là một vị tướng đầy đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, mà trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Chính vì vậy cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.Chiến thắng giặc ngoại xâm,bảo vệ độc lập của dân tộc.
    Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:

    - Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?

    Ông đã trăng trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:

    - Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

    Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo Đại vương qua đời.
    Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo Đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó có thể kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại vương.
    Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam.

    b/ Từ những nguồn thông tin khác
    - Khi được nghỉ hưu,Trần Hưng Đạo đã trở về Kiếp Bạc trồng một vườn thuốc,vừa là để vui thú tuổi già vừa là để lấy thuốc chữa bệnh cho dân.Vườn thuốc của Ông có tên là Dược viên Cổ lĩnh.

    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ lĩnh Dược viên một vườn cây,
    Ung dung dạo bước ngắm trời mây.
    Vuốt râu,cười khẩy trông phương Bắc,
    Ái quốc,trung quân một kiếp người


    4/ Tam tổ Trúc lâm
    a/ Đệ nhất sư tổ Trần Nhân Tông
    1/ Theo tài liệu lịch sử
    Ngài tên húy là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu, sinh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở địa vị cao sang, mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử. Ngài cố từ chối để nhường lại cho em, mà vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu và Trần Hưng Đạo cho Ngài, tức là Khâm Từ Thái hậu sau này. Sống trong cảnh quyền uy, hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.
    Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Ðến chùa Tháp ở núi Ðông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.
    Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy ở nơi rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.
    Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
    Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử sách ngợi ca là vị anh hùng cứu nước là bậc "Vua hiền của nhà Trần... thuần túy đạo mạo, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng...
    Thời gian Trần Nhân Tông trị vì, nước Đại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm,nhưng nhà Trần dưới quyền ông, quả là một thời thịnh trị.
    Những nǎm đầu cầm quyền, Trần Nhân Tông đã phải trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Ông đã cùng vua cha Trần Thánh Tông, mở hội nghị quân sự Bình Than, phân công các tướng lĩnh đi đóng giữ những nơi hiểm yếu để chuẩn bị đón đánh các mũi tiến công của địch (1282). Ông lại cùng với cha tổ chức hội nghị Diên Hồng (1284) để hội tụ được sức mạnh của dân tộc, nhất trí trẻ già, một lòng quyết đánh. Chưa bao giờ tinh thần đánh giặc ở nước ta được phát triển mạnh như dưới thời vua Trần Nhân Tông. Cả nước sục sôi chuẩn bị, quân sĩ tỏ thái độ quyết không đội trời chung với địch. Và quả nhiên quân ta đã ra quân là chiến thắng, còn địch thì thất bại thảm hại. Trận Bạch Đằng (9-4-1288) đại thắng đã đè bẹp ý đồ bành trướng của đế quốc Nguyên Mông, đế quốc cường bạo nhất hồi bấy giờ, đã chiến thắng từ Âu sang A', song chúng không làm gì xoay chuyển nổi tình thế ở Việt Nam. Chiến công này là của toàn dân, của những vị nguyên soái, đại tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão v.v... Song công lao đầu thuộc về hai cha con Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Trong cả 2 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông hai ông đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân lãnh đạo nhân dân Đại Việt vượt qua bao khó khǎn gian khổ, đưa cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
    Những khi giặc Nguyên sang quấy rối, Trần Nhân Tông phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, nhà vua đã hai lần chỉ huy cuộc kháng chiến (1285, 1288) đánh đuổi được quân Nguyên- Mông một đế quốc hùng mạnh bậc nhất lúc bấy giờ, giữ gìn trọn vẹn giang sơn đất nước. Dưới triều đại Trần Nhân Tông, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: Hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị các bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, quyết tâm chống giặc.Đây là hai hội nghị thể hiện được sách lược “ Đoàn kết toàn dân,trên dưới một lòng” quyết tâm chống giặc ngoại xâm,bảo vệ đất nước.
    Khi đất nước sạch bóng quân thù, Trần Nhân Tông đã chú trọng đến việc khuyến khích trồng dâu nuôi tằm, chiêu mộ dân khai khẩn ruộng hoang, mở rộng các công trình thủy lợi, đại xá cho thiên hạ. Nơi nào bị địch tàn phá thì tha sưu thuế, những nơi khác thì giảm thuế hoặc miễn theo thứ bậc khác nhau . Ông luôn luôn nhắc các quần thần phải biết thương dân. Có lần ông trực tiếp phân xử phải trái cho những người dân đón đường thưa kiện, vạch rõ cái sai của quan lại, cận thần. Ông rất trân trọng sự đóng góp to lớn của tướng sĩ, quân dân đối với ba cuộc kháng chiến.
    Một nét độc đáo riêng của Trần Nhân Tông so với nhiều nhà vua khác là ông rất thích du lịch, ông thường tổ chức những chuyến đi xa, vừa để trò chuyện, thuyết lý về những quan điểm triết học, tôn giáo của ông, vừa để thu thập thêm nhiều kiến vǎn trong hay ngoài nước.
    Trần Nhân Tông không những chỉ là một vị vua giỏi, một anh hùng cứu nước mà ông còn là một nhà vǎn xuất sắc, có công lớn đối với nền vǎn học quốc âm. Từ đời nhà Lý trở về trước, cho đến các triều vua Trần: Thái Tông, Thánh Tông không có một tác phẩm vǎn chương quốc ngữ nào. Những Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố mới chỉ nghe tên chứ chưa tìm ra tác phẩm. Đến cuối thế kỷ 13, chỉ có Trần Nhân Tông với bài phú "Cư trần lạc đạo" là mở trang đầu cho cuốn sách sưu tầm vǎn học quốc âm của thời đại.
    Ngài thường ăn chay lạt, thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của Tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.
    Con người Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, thông suốt nội điển (kinh) và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Ðối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.
    Sau 14 nǎm làm vua, năm Quí Tỵ ( 1293 )Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, Ngài lên làm Thái thượng hoàng, lúc đó mới có 35 tuổi.Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được 6 năm,Ngài sắp đặt việc xuất gia.
    Ðến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó.
    Ðến năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những miếu thờ thần không chính đáng, và dạy họ tu hành thập thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia.Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.
    Ngày mùng một tháng giêng năm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Ðăng Lục, sai Quốc sư Ðạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, cho những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không phải chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị Thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Ðăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi.
    Từ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”
    . Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bồ-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự bảo mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Pháp Loa rồi dạy : “Phải khéo gìn giữ”.
    Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng:

    Âm:
    Thế số nhất tức mặc
    Thời tình lưỡng hải ngân
    Ma cung hồn quản thậm
    Phật quốc bất thắng xuân.

    Dịch:
    Số đời một hơi thở
    Lòng người hai biển vàng
    Cung ma dồn quá lắm
    Cõi Phật vui nào hơn.

    Ðến ngày mười bảy, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ Hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Ðây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngày mười tám, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sinh. Thấy nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Ðến am Ngọa Vân, Ngài dặn hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.”
    Ngày mười chín, Ngài sai Thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sái đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sái quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Ðêm ấy Bảo Sái nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành.
    Ngày hai mươi mốt, Bảo Sái đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Ðối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.”
    Sau khi dặn dò Bảo Sái xong,Điều Ngự Giác hoàng nằm ở am Ngọa vân ( thuộc chùa Bảo Sái ngày nay ) mà viên tịch, niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu (1308), thọ năm mươi mốt tuổi.
    Pháp Loa theo lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm xá lị (ngọc cốt) có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước xá lị về tôn thờ nơi Ðức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Ðại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Ðầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Ðiều Ngự Tổ Phật.
    Thiền pháiTrúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc nhất trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam.Trần Nhân Tông thực sự là một triết gia lớn của Phật học, giúp triết học Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ thể hiện đầy đủ trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam. Lý thuyết của phái Trúc Lâm do Ông khởi xướng là không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, không ép xác khổ hạnh, mà đề cao nhân nghĩa, giáo dục lòng nhân đạo, không phân biệt giàu sang, luôn luôn nhớ đến cội nguồn.
    Với chủ trương “Cư trần mà lạc Đạo”, cứ ở cõi đời mà vui đạo và hoàn toàn có thể tu luyện tốt trong khi chúng ta vẫn phải lo toan những công việc trần tục. Đây là một quan điểm tôn giáo sâu sắc và rất tiến bộ “Đời-Đạo song tu”.Việc đầu tiên của tu đạo theo quan điểm này là hãy làm một người tốt,một người thẳng thắn trung thực biết hạn chế lợi ích của cá nhân vì lợi ích của cộng đồng của dân tộc.Hãy tìm phật ở chính Tâm của mình và hãy sử dụng ngay sức mạnh ấy, nguồn năng lượng vô tận ấy để cải tạo cuộc đời trần tục này.Tu luyện để làm cho cuộc sống trần tục của chúng ta tốt đẹp hơn lên.
    “Đạo Phật cấm sát sinh song giết giặc cứu dân không có gì trái đạo…,ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối, ở đâu tu cũng được lúc nào tu cũng được,tu thì lâu cạo đầu mấy chốc,thứ nhất tu tại gia thứ hai tu chợ thứ ba tu chùa.”
    Người đương thời và sau đó đã tạc tượng Trần Nhân Tông. Tượng ở Yên Tử, đặt trong Huệ Quang Kim tháp, là một pho tượng khỏe mạnh, rắn chắc, cân đối, đầy sức mạnh và nghị lực, còn ở chùa tháp Phổ Minh (Nam Định) tượng có vẻ ung dung thanh thản, hợp với con người nhà vua. Trần Nhân Tông đã bước vào cõi Niết Bàn, nhưng còn để lại hình ảnh của một chiến sĩ, một thi nhân, một triết nhân của dân tộc.
    Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần.Để ca ngợi vị Vua anh minh,vị Phật Việt Nam này,tinh hoa của Thiền phái trúc lam việt Nam đã được thể hiện trong đôi câu đối sau, vừa ngắn gọn vừa nói lên nhiều điều để chúng ta xuy ngẫm và học tập.
    Dạy dân tu Thiền giáo,yêu đạo - yêu đời,
    Dẹp giặc độ chúng sinh,làm Vua – làm Phật
    .

    2/ Từ những nguồn thông tin khác
    - Kể từ năm 1308 sau khi nhập niết bàn,đệ nhất Sư tổ của Thiền phái trúc lâm Yên tử luôn đau đáu việc đi tìm truyền nhân cho bổn phái.Thế rồi Ngài đã tìm được.
    Thiên thu nay đã thỏa ước nguyền,
    Gươm thiêng trao trọn với niềm tin.
    “ Định pháp vô minh” ta truyền lại,
    Cho con giữ mãi một đức tin.
    Yên Tử Ngày 30/3/2006

    - Hiện nay Sư tổ là người chủ trì việc “ Hoằng dương Phật pháp” tại Việt Nam.


    b/ Đệ nhị Sư tổ : Pháp Lòa
    1/ Theo tài liệu lịch sử.
    Ngài tên thật là Đồng Kiên Cương, sinh năm Thiệu Bảo thứ sáu (1284) ngày mùng 7 tháng 5, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trước khi sinh Ngài, mẫu nằm mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm, bà thích lắm nhận lấy. Từ đó, bà biết có thai. Vì trước kia bà sinh liền tám người con gái nên chán ngán, phen này bà cố tình uống thuốc phá thai, nhưng đều vô hiệu. Đến khi sinh ra Ngài, bà mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Ngài thiên tư dĩnh ngộ, miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá.
    Niên hiệu Hưng Long thứ mười hai (1304), Điều Ngự Giác Hoàng(Trần Nhân Tông) đi các nơi, phá dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng) và ban pháp dược, đến mạn sông Nam Sách. Ngài đến lễ bái xin xuất gia, năm này Ngài mới hai mươi mốt tuổi. Điều Ngự trông thấy bằng lòng, nói: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí, vui vẻ tự đến đây.” Điều Ngự bèn cho hiệu là Thiện Lai, dẫn về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn cạo tóc và thọ giới Sa-di. Sau đó cho đến tham vấn với Hòa thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, Ngài tìm đủ cách thưa hỏi mà không được khai ngộ. Ngài tự đọc bộ kinh Hải Nhãn (có lẽ kinh Lăng Nghiêm) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ khách trần ở sau, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Ngài ngộ ra. Ngài từ tạ Hòa thượng Tánh Giác, trở về tham yết với Điều Ngự.
    Gặp lúc Điều Ngự thượng đường, Ngài ra thưa hỏi, Điều Ngự nhận biết bèn cho Ngài theo hầu hạ . Một hôm, Ngài trình cả ba bài tụng, đều bị Điều Ngự chê cả. Ngài thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham vấn lấy. Ngài vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy hoa đèn tàn rụng xuống, Ngài chợt đại ngộ
    Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Điều Ngự đưa Ngài lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát. Thấy chỗ tham học của Ngài đã thành đạt, Điều Ngự cho hiệu là Pháp Loa.
    Năm Hưng Long thứ mười lăm (1307), Ngài được hai mươi bốn tuổi, Điều Ngự trụ ở am Thiên Bảo Quan có bảy tám người Thị giả mà Ngài là đứng đầu. Điều Ngự giảng Đại Huệ Ngữ Lục cho Ngài. Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bồ-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự bảo mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Ngài rồi dạy : “Phải khéo gìn giữ”.
    Năm Hưng Long thứ mười sáu (1308) vào ngày mùng một tháng giêng, Ngài vâng lệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp Trụ trì tại nhà Cam Lồ chùa Siêu Loại. Khai lễ có vua Anh Tông và đình thần đến dự. Điều Ngự lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Ngài giảng đạo. Lễ xong, Điều Ngự giao cho Ngài kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử.Ngài là Tổ đời thứ hai của phái Trúc Lâm Yên Tử. Điều Ngự còn trao cho Ngài hơn hai trăm bộ kinh sử và bảo Vua Anh Tông sung cúng vào chùa cả trăm khoảnh ruộng.
    Tháng mười một năm ấy (1308), Điều Ngự tịch, Ngài phụng mạng cung nghinh xá-lợi về kinh đô. Trở về núi, Ngài soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.
    Năm Hưng Long thứ mười chín (1311), Ngài phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh. Ngài giao cho Bảo Sái làm chủ việc này. Tháng tư, Ngài giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó, Huyền Quang trình kiến giải, đều được Ngài chấp nhận.
    Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (1313) vào tháng 9, Ngài phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang định chức cho Tăng đồ. Chúng Tăng từ đây mới có sổ bộ, chính Ngài là người cầm sổ bộ ấy. Lúc đó, Ngài độ cho hơn một ngàn vị Tăng. Về sau cứ ba năm một lần độ Tăng như thế.
    Năm Đại Khánh thứ tư (1317) đời Trần Minh Tông, vào tháng 2, Ngài bị bệnh nặng. Ngài đem y bát và viết bài tâm kệ trao cho Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít hôm, bệnh Ngài được lành.
    Những hàng Thái hậu, Công chúa, Vương công, quí khanh đều thỉnh Ngài truyền giới xuất gia hoặc giới Bồ-tát, cho đến vua Trần Anh Tông cũng được Ngài xem như đệ tử. Mọi người đua nhau cúng đất, vàng, tiền để Ngài lập chùa, đúc tượng Phật, in kinh quá nhiều, đến nỗi Ngài phải tự xin giảm dần những số quyên cúng, thuyền của Vua cấp cho Ngài tiện việc đi lại và về kinh đô, Ngài cũng từ chối không nhận.
    Năm đầu Khai Hựu (1329) đời Trần Hiến Tông, Ngài mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn, làm thành danh lam thắng cảnh.

    c/ Đệ Tam Sư Tổ Huyền Quang
    1/ Theo tài liệu lịch sử.
    Ngài tên Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ là Huệ Tổ dòng dõi quan lại, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà Ngài ở phía nam chùa Ngọc Hoàng. Năm Ngài sinh, một hôm thầy Trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư Huệ Nghĩa tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội đông đủ, Kim cang Long thần đủ cả, Phật chỉ Tôn giả A-nan bảo: “Ngươi thác sanh làm pháp khí cõi đông.” Có ông đạo gõ cửa, ông chợt tỉnh giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa:

    ÂM:
    Nhân chi vị đạo khởi tha tầm
    Tâm tức Phật hề Phật tức tâm
    Huệ địch kiết tường vi ảnh hưởng
    Thử sanh tất kiến hảo tri âm.

    DỊCH:
    Người mà vì đạo chớ tìm đâu,
    Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu.
    Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng,
    Đời này ắt gặp bạn tâm đầu.

    Thuở nhỏ Ngài dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mến yêu,được dạy cho nhiều học thuật. Ngài học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ 2 (1274), đời vua Trần Thánh Tông, Ngài thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy mới có hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Ngài, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả Công chúa cho, Ngài vẫn từ chối.
    Ngài được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương kiến thức của Ngài vượt hơn hẳn sứ Trung Hoa, khiến cho họ phải nể phục.
    Một hôm, Ngài theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Ngài chợt tỉnh ngộ rồi tự ngẫm: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới Tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quí như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên lưu luyến!”
    Ngài mấy phen dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua cũng rất mến trọng Phật giáo, nên cuối cùng cũng cho Ngài xuất gia. Đến niên hiệu Hưng Long thứ 13 (1305), Ngài xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm Thị giả Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, được Điều Ngự đặt pháp hiệu là Huyền Quang.
    Niên hiệu Hưng Long thứ 17 (1309), Ngài theo hầu Pháp Loa, theo như lời phó chúc của Điều Ngự. Ngài vâng lệnh, trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Ngài đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học trò bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên, không dưới ngàn người.
    Ngài thường phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm Kinh, Công Văn v.v… Những khoa giáo trong nhà thiền mọi thứ đều do Ngài xem,duyệt cả.
    Ngày rằm tháng giêng năm Quí Sửu (1313) vua Anh Tông mời Ngài về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Ngài dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân dịp này, Ngài lập ngôi chùa ở phía tây nhà Ngài lấy hiệu là chùa Đại Bi.
    Ngài trở về chùa Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Ngài nên cho Điểm Bích là một cung nữ cố tìm mọi cách để gần gũi Ngài,và lấy được bằng chứng đem về dâng Vua. Điểm Bích dùng gian kế gợi lòng dục của Ngài,nhưng chưa bao giờ Điểm Bích thành công. Trong những buổi lễ chẩn tế của Ngài, thường thấy xuất hiện những sự linh nghiệm lạ thường,từ đấy nhà vua không còn nghi ngờ gì nữa.
    Năm Đại Khánh thứ tư (1317), Ngài được Pháp Loa truyền y bát và giao tâm kệ .
    Năm 1330, khi Tổ Pháp Loa tịch, Thiền sư Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, bấy giờ Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Tuy nhận trọng trách lãnh đạo Giáo hội, song vì già yếu nên Ngài ủy thác mọi việc cho Quốc sư An Tâm, trở về trụ trì ở Côn Sơn Tự.
    Đệ nhị Sư tổ trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm. Sau đó sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Đệ nhị Sư tổ viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám mươi tuổi.
    Vua Trần Minh Tông phong thụy là TRÚC LÂM THIỀN SƯ ĐỆ TAM ĐẠI, đặc phong TỪ PHÁP HUYỀN QUANG TÔN GIẢ.

    b/ Từ những nguồn thông tin khác.
    - Là một Thiền sư đồng thời là một học giả uyên thâm,chỉ với 4 câu thơ Ngài đã dạy bảo học trò hiểu được những lẽ cao siêu của Thiền phái :

    Đời đạo song tu mấy kiếp người,
    Gieo niềm hạnh phúc đã bao nơi.
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện,
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm.

    Yên Tử Ngày 30/3/2006

    - Sư tổ luôn luôn hết lòng vì học trò,theo dõi dạy bảo học trò ở mọi nơi mọi lúc.Khi thấy học trò chăm chỉ và thành đạt,Ngài vui lắm.Khi đến thăm học trò,thấy học trò đang luyện tập Ngài đã tặng thơ :

    HUYỀN huyền,ảo ảo một cõi trần,
    QUANG minh chiếu rọi khắp muôn dân.
    SƯ tăng thiền định,tâm hướng Phật,
    Tổ tông truyền dạy được mấy nhân.


    Kết luận :
     Thiền phái Trúc lâm Yên Tử là một phái của đạo Phật tại Việt Nam,có qui mô sâu rộng,có ảnh hưởng mãi mãi đến tư duy tâm linh của dân tộc.
     Huyền Thiên Cổ Tự là nơi mà Tam tổ Trúc lâm đã tu luyện,đã hành đạo

    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ tự Huyền Thiên,thông vẫn xanh,
    Chênh vênh sườn núi,điểu nghe kinh.
    Lan xa,tiếng mõ khua rừng vắng,
    Hay lòng Tam tổ độ chúng


    /
    Lần sửa cuối bởi NhuMai, ngày 28-04-2021 lúc 20:28.
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm
     
  3. NguyetQuangTu's Avatar

    NguyetQuangTu viết:

    Mặc định

    .
    5/ Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
    a/ Theo tài liệu lịch sử
    Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, Chí Linh. Từ nhỏ đã có tướng mạo xấu xí nhưng tư chất thông minh, lại rất chăm chỉ học hành, có tài ứng đối mau lẹ.
    Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (năm 1304), ông đi thi đỗ Trạng Nguyên. Nhà vua cho vời vào cung để ban áo mão cân đai, nhìn thấy Tân Trạng chỉ là một chàng trai có vóc người nhỏ thấp, tướng mạo xấu xí, vua Anh Tông có ý không muốn dùng. Ồng bèn dâng bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú” (bài phú: Sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình.

    “Ngọc tỉnh liên”
    …Phi đào lý chi thô tục; phi mai trúc chi cô hàn
    Phi tăng phòng chi cẩu kỷ; phi Lạc thổ chi mẫu đơn
    Phi Đào lệnh đông ly chi cúc; phi linh quân cửu uyển chi lan
    Nãi thái hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên….

    Nghĩa là: Hoa sen trong giếng ngọc


    Chẳng phải như đào trần, lý tục; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy (1)
    Cẩu kỷ phòng tăng khó tránh; mẫu đơn đất Lạc nào bì (2)
    Giậu Đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh quân lan sá kể gì. (3)
    Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa vậy!…

    Vua xem xong bài phú, từng câu, từng chữ như khiến Người bừng tỉnh và thốt lên: "Mạc Trạng nguyên quả là bậc thiên tài, có tiết tháo".
    Quan Trạng rất được lòng dân bởi đức tính thanh liêm, về sau làm đến chức Tả Bộc Xạ (Thượng Thư).
    Mạc Đĩnh Chi là người rất liêm khiết, thẳng thắn, được tiền không lấy làm của riêng, giàu sang phú quý đối với ông không có ý nghĩa gì, cho nên được người đời ca tụng.
    Một lần, vào năm 1323, vua Trần Minh Tông cho gọi viên quan nội thị đến nói nhỏ :
    - Nghe nói các quan và dân chúng đều xem Mạc Đĩnh Chi là người liêm khiết, thẳng thắn lắm. Trẫm định thử xem có đúng như thế chăng?
    Nói đoạn , vua Minh Tông lấy 10 quan tiền đặt vào tay viên quan nội thị, rồi ghé sát tai thì thầm to nhỏ. Viên quan nội thị tâu :
    - Thần sẽ làm đúng như ý bệ hạ sai bảo.
    Sáng ấy, Mạc Đĩnh Chi dậy sớm hơn thường lệ. Trời còn chưa sáng rõ , ông đã tập xong hai bài quyền. Ông vươn người hít thở không khí trong lành của buổi sớm ban mai. Xong công việc thường lệ , ông lững thững vào nhà. Vừa bước lên bậc cửa, bỗng ông kêu lên kinh ngạc :
    - Ô kìa ! tiền của ai đánh rơi mà nhiều thế kia?
    Ông nhặt lên đếm, vừa tròn 10 quan. Ông thầm nghĩ : "Quái ! Đêm qua không có ai lại chơi, sao có tiền rơi? ". Ông vội vã khăn áo chỉnh tề, vào yết kiến nhà vua :
    - Tâu bệ hạ, thần sáng nay có bắt được 10 quan tiền ở trước cửa nhà, hỏi khắp cả mà không ai nhận, thần xin trao lại để bệ hạ trả lại kẻ mất của.
    Vua Minh Tông mỉm cười gật đầu :
    - Không ai nhận tiền ấy thì người cứ lấy mà dùng...
    - Thưa bệ hạ , tiền này không ít, người mất của chắc xót xa lắm, nên tìm người trả lại thì hơn.
    - Nhà ngươi yêu tâm, cứ giữ lấy mà dùng. Tiền thưởng lòng chính trực , liêm khiết của nhà ngươi đấy.
    Mạc Đĩnh Chi bấy giờ mới vỡ lẽ ra là nhà vua đã thử lòng ông. Ông chào tạ ơn rồi trở về.
    Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi nhận chiếu chỉ của vua Anh Tông đi sứ nhà Nguyên – Trung quốc. Dạo ấy vào đầu mùa hạ, tuy trời ít mưa, nhưng đã mưa thì mưa như đổ nước từ trên trời xuống; đường xá, đồng ruộng, nước trắng băng một màu, việc đi lại gặp trở ngại lớn. Chính vì vậy mà đoàn sứ bộ đến quan ải chậm mất hai ngày. Quan coi ải một mực không cho qua. Mạc Đĩnh Chi bực lắm, toan quay trở về nhưng nghĩ đến mệnh vua mà mình gánh vác chưa trọn nên nán lại xin quan coi ải mở cửa cho đi. Ngẫm nghĩ hồi lâu, Phong Lũy là viên quan coi ải nói :
    - Nghe nói ngài là người có tài văn chương, tài ấy sao không sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một vế câu đối, nếu đối thông suốt, sẽ mở cửa ải; bằng không,xin mời ngài quay lại .
    Yên lặng giây lát, viên quan nọ hí hửng ra vế đối :
    - Quá quan trì , quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.
    (Đến cửa ải chậm, cửa ải đóng,mời khách đi qua cửa ải )
    Không cần suy nghĩ lâu, Mạc Đĩnh Chi đối ngay :
    - Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối. (Ra đối thì dễ, đối lại thì khó, mời tiên sinh đối trước).
    Quan coi ải vái ông hai vái, tỏ ý phục tài, rồi mở cửa cho đi.
    Một buổi chiều hè, trời nắng như đổ lửa,đoàn sứ thần của Mạc Đĩnh Chi lúc ấy đi qua một quán nước ven đường. Mạc Đĩnh Chi cho mọi người nghỉ lại. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đon đả chào khách. Cạnh đấy không xa có một giếng khơi, nước trong xanh. Trên thành giếng có viết 5 chữ : "Ngân bình, kiện thượng tị ". Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chậm rãi kể :
    - Xưa có một cô gái bán hàng nước học hành giỏi, chữ nghĩa thông. Gần đây, có một anh học trò muốn ngấp nghé, cứ ngày ngày đi học về, lại vào uống nước tìm lời trêu ghẹo. Một hôm cô hàng nước nói thực với anh:
    - Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa, Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một vế đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây làm gì nữa. Anh học trò bằng lòng. Cô hàng,nhân trông thấy cái ấm tích bằng bạc, mới ra vế đối rằng:
    " Ngân bình, kiện thượng tị "
    (Bình ngọc, mũi trên vai. Ý nói cái vòi trên cổ ấm ).
    Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống giếng đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được .
    Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười :
    - Câu ấy dễ thế sao không đối được, mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm, giản oan cho hồn kẻ thư sinh.
    Mạc Đĩnh Chi bèn đọc :
    " Kim tỏa, phúc trung tu"
    (Khóa vàng, râu trong bụng. Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa ).
    Sau đó, Mạc Đĩnh Chi bèn sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh vế đối của cô hàng nước năm xưa.
    Mọi người đều chịu ông là đối giỏi.
    Trong buổi yết kiết hoàng đế nhà Nguyên, còn có cả sứ thần Triều Tiên. Vốn nghe danh trạng nguyên nước Việt, người xấu xí nhưng ứng đối như thần, vua Nguyên muốn nhân dịp này thử tài hai vị sứ giả.
    Trong lúc đang phân vân thì có người vào triều dâng lên chiếc quạt rất đẹp, vua Nguyên liền bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Với sự nhanh trí kì lạ, ông đề:
    "Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.
    Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di Tề ngã phu.
    Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù."

    Dịch nghĩa:

    "Chảy vàng, tan đá, trời đất là lò lửa, thì lúc ấy quạt như Y Doãn, Chu Công, là những người tài giỏi".
    Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, lúc ấy quạt như Bá Di, Thúc Tề, là những ông già chết đói.
    Ôi! Dũng thì thành đạt, bỏ thì xếp xó. Chỉ có ta và người là như thế chăng?"
    Bài của Mạc Đĩnh Chi làm xong trước, ý sắc sảo, văn lại hay thể hiện cái tài và cái tâm của người làm việc lớn. Triều thần nhà Nguyên nhìn nhau trầm trồ thán phục
    Lần đi xứ ấy, ông thể hiện tài ứng đối và ngoại giao kiệt xuất,trí tuệ uyên bác của người Việt Nam đã được tỏa sáng rực rỡ tại đất nước Trung Quốc,làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính nể, Vua Nguyên phong Mạc Đĩnh Chi là Lưỡng quốc Trạng nguyên.
    Cuối đời, Mạc Đĩnh Chi về chí sỹ tại quê nhà mở trường dạy học gần gò Hạc, xã Linh Khê - nay là xã Thanh Quang. Tại đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở thôn Long Động, xã Thanh Quang, các di tích trên hiện vẫn còn, đang được nhân dân và chính quyền địa phương tu tạo, quy hoạch và đầu tư xây dựng lại.

    Tượng thờ Mạc Đĩnh Chi
    b/ Từ những nguồn thông tin khác
    - Có lần mấy người theo học khí công về dâng hương tại đền Cụ.Cụ dùng ngón tay búng một cái,có những tia sáng bắn ra bay thẳng vào não bộ từng người.Khi hỏi lại : “Cụ vừa cho chúng con cái gì ?” Cụ trả lời : “ Đó là tinh tuệ,nó có tác dụng làm cho não minh mẫn hơn.”

    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ Trai Long Động sáng lung linh,
    Hoa sen giếng ngọc,tự ví mình .
    Lưỡng quốc trạng nguyên,lừng danh tiếng.
    Tinh tuệ trời Nam được chứng minh.



    6/ Quốc phụ Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn

    a/ Theo tài liệu lịch sử.
    Trần Quốc Chẩn là thân sinh của hoàng hậu. Hoàng hậu sống với vua đã lâu mà không sinh được hoàng tử. Triều thần bấy giờ chia làm hai phe: phe của Cương Đông Văn Hiến hầu (không rõ tên) và Trần Khắc Chung muốn giảm bớt thế lực của phe Trần Quốc Chẩn nên tâu vua xin lập hoàng tử Vượng là con của bà hoàng phi Lê Thị làm thái tử. Còn phe của Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn thì xin vua chờ cho hoàng hậu sinh hoàng nam rồi hãy lập thái tử. Vua Minh Tông phân vân chưa quyết. Giữa lúc hai bên còn đang giằng co thì Văn Hiến hầu cho tên Trần Phẫu là gia thần của Trần Quốc Chẩn một trăm lạng vàng và xui nó tố cáo Trần Quốc Chẩn âm mưu làm phản.
    Trước những chứng cớ do bọn gian thần tạo ra,Trần Quốc Chẩn không thể tự thanh minh được.Trần Quốc Chẩn vừa là Quốc trượng,vừa là một vị quan thanh liêm, chính trực đứng đầu triều đình.Không chỉ thế Trần Quốc Chẩn còn là một Võ tướng có công lớn trong việc đánh dẹp Chiêm Thành,một trụ cột của triều đình lúc bấy giờ.Vua Trần Minh Tông cũng phân vân lắm,ngoài những chứng cớ làm phản thì Trần Quốc Chẩn chẳng có lỗi gì.Nhà vua không nỡ cho chém đầu Ông,mà sai bắt Quốc Chẩn đem giam ở chùa Tư Phúc.
    Trần Khắc Chung lại tâu vua xin trừ Quốc Chẩn đi, lấy cớ rằng "bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Vua Minh Tông cũng đành nghe theo, rồi cấm không cho Quốc Chẩn ăn uống, để cho chết đói.
    Hoàng hậu đến thăm cha, không thể mang thức ăn vào được, chỉ lấy áo nhúng nước rồi mặc vào, đến nơi vắt nước ra cho cha uống để đỡ khát. Trần Quốc Chẩn uống xong thì chết.
    Về sau, người vợ lẽ của Trần Phẫu ghen nhau với vợ cả, đi tố cáo chuyện Trần Phẫu nhận vàng và vu cáo cho Trần Quốc Chẩn nên mọi việc sáng tỏ. Bấy giờ triều đình và dân chúng mới hiểu được nỗi oan của bậc trung thần. Ngục quan Lê Duy là người trung trực, xét xử ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị kết án lăng trì (tùng xẻo). Văn Hiến hầu vì là người của hoàng tộc nên được miễn tội chết, chỉ bị giáng xuống làm dân thường, xóa tên trong sổ hoàng tộc.
    Vì việc ấy mà vua Trần Minh Tông ân hận lắm,chính Ông : Một minh Quân lại đi giết oan một người bố vợ,một vị tướng tài,một trung thần bậc nhất của triều đình.
    b/ Từ những nguồn thông tin khác
    - Mặc dù mắc phải cái chết oan nghiệt như thế nhưng sau khi từ bỏ thế giới này,ông vẫn vui vẻ làm việc giúp dân, giúp nước.Ông vẫn đang đi hành đạo và giúp đỡ những người khác hành đạo.

    Quốc phụ ta đây ,vẫn mỉm cười,
    Giúp con hành đạo khắp muôn nơi.
    Con đi hành đạo,ta hành đạo,
    Cũng bởi nhân duyên tự kiếp nào.
    Yên Tử Nhày 30/3/2006


    Hiện nay Trần Quốc Chẩn phụ trách toàn bộ vấn đề trạch cát của đất nước.Ông vẫn đang chỉ đạo người của Ông hoàn thiện và giữ gìn tất cả các mạch đất của Tổ quốc. Thể theo yêu cầu của NQT Ông còn cho người đến hoàn thiện các mạch đất cho từng gia đình lương thiện có trái tim trong sáng nhưng không may làm nhà trên một mảnh đất xấu.
    - Trần Quốc Chẩn vẫn sống rất giản dị,Ông thường mặc bộ quần áo gụ như một nông dân,Ông thích,trải chiếu xuống đất ngồi uống rượu.

    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ Trạch, về thăm Quốc Trượng.Đi...
    Chuyện buồn ngày ấy kể làm chi.
    Thiên văn,Địa lý lòng thông tỏ,
    Trải chiếu ngồi đây,uống rượu.Khì...


    7/ Năm anh em họ Vương
    Tại xã An Lạc-Chí Linh-Hải Dương có một quần thể di tích gồm có 4 ngôi đền và một ngôi chùa.Đền Cả là ngôi đền thờ 2 bà Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu,đồng thời đền Cả cũng là nơi thờ chung của nhà họ Vương.Bên cạnh Đền Cả có chùa Cả đã hơn 1000 năm tuổi.
    Từ Đền Cả đi một đoạn xa nữa thì đến đền Cao,đền Cao tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Bồng,nơi đây thờ Thiên Bồng Đại tướng quân Đại vương Vương Đức Minh.Ngay phía sau đền Cao có một đền nhỏ để lộ thiên gọi là đền Thánh hóa.Ở gần phía bờ sông có hai ngôi đền nữa,đền Bến Cả thờ Anh dũng Vũ lược Đại vương Vương Đức Hồng,đền Bến Tràng thờ Dực thánh Linh ứng Đại vương Vương Đức Xuân.
    a/ Truyền thuyết nói rằng :
    Hai ông bà họ Vương quê tận Thanh Hóa nhưng đã đưa nhau ra sinh sống tại đất Hải Dương.Một hôm bà đi tắm sông thấy có một con rồng cuốn quanh người,về nhà bà đã mang thai.Đến kỳ sinh nở,bà sinh ra hai người con gái và ba người con trai.Các con được cha mẹ thương yêu hết lòng,chăm sóc tận tình.Khi lớn lên cả 5 chị em đều là những người thông minh xuất chúng.Cha mẹ đã kén Thầy dạy họ cả văn cả võ.Năm chị em đều ăn chay từ nhỏ và họ đều văn võ song toàn.
    Không may cha mẹ gặp tai nạn bị chết,năm chị em chôn cất cho cha mẹ xong thì đều ở nhà chịu tang.Trong thời gian này Lê Hoàn đang lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống lại quân Tống xâm lược.Lê Hoàn có một đại bản doanh đóng tại Xã An Lạc - Chí linh.Một hôm tình cờ Lê Hoàn nhìn thấy anh em nhà họ Vương,Ông phát hiện ra họ là những con người có tướng mạo phi phàm,Ông cho gọi lại hỏi chuyện.Khi được biết năm anh chị em nhà này đều văn võ song toàn thì ông mừng lắm.Khi Lê Hoàn hỏi vì sao mấy anh chị em đều là những người có tài mà không ra giúp dân, giúp nước chống giặc ngoại xâm. Anh em nhà họ Vương trả lời,họ rất muốn tham gia cuộc chiến chống giặc ngoại xâm nhưng hiềm vì còn đang phải chịu tang cha mẹ.Nghe xong Lê Hoàn phân tích cho họ thấy,việc nhà là việc nhỏ,việc nước là việc lớn.Nếu bọn giặc Tống đánh sang đến đây thì liệu anh em họ có còn ngồi nhà mà chịu tang cha mẹ được chăng.Hiểu ra lẽ phải,cả năm anh chị em nhà họ Vương đều tham gia vào quân đội của Lê Hoàn.
    Năm anh em nhà họ Vương đã trở thành 5 vị tướng có công rất lớn trong việc dẹp yên giặc Tống,bảo vệ vững chắc nền độc lập của nước nhà.
    Sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm,vua Lê Hoàn có ý phong quan chức cho các vị tướng có công trong cuộc kháng chiến,nhưng cả 5 anh em họ Vương đều từ chối không nhận.
    Tại đền Thánh hóa ( phía sau đền Cao ) cả 5 anh chị em họ đều hóa thân và bay về trời.
    Tại đền Cao,từ hàng ngàn năm nay dân làng vẫn duy trì được một nghi lễ đặc biệt đó là “ Lễ xin trùm ”
    Trong ngày đại lễ, đền được trang hoàng ấn tượng. Chính giữa nơi hành lễ là một tấm biển lớn trên có chữ “Lễ Xin Trùm”. Từ 5 giờ sáng, bài vị, kiệu, lọng của năm vị thánh, đền Cao, đền Cả (nơi thờ hai vị), đền Bến Tràng, đền Bến Cả cùng cỗ chay: cơm trắng, hoa quả, bánh kẹo, bánh dày và chè đông (hai món không thể thiếu được trong lễ hội đền Cao) đã được các quan đám cùng dân làng rước về nơi hành lễ trong tiếng chiêng trống vang lừng. Cả năm đoàn rước từ năm hướng cùng một lúc tụ về nơi hành lễ.Các ngôi đền ở đây,ngày thường cũng như ngày lễ chỉ được thắp duy nhất một loại hương đen,loại hương mà dân làng ở đây cho rằng hương này là hương thanh khiết nhất.
    Lệ xin trùm ở đền Cao ra đời từ khi lập đền, đến nay đã được duy trì hơn một ngàn năm và là một nghi lễ linh thiêng được thực hiện vô cùng khắt khe. Để đứng ra lo việc đền hằng tháng, hằng năm sẽ có một cụ trùm và năm vị quan đám đại diện cho bốn ngôi đền trên và một ngôi đình là quan Đông, quan Đoài, quan Nam, quan Bắc và quan Trung. Những người này là bậc cao niên trong làng, sống đức độ, con cháu hiếu thảo thuận hòa và đặc biệt gia đình không có tang trở. Mỗi tháng 6 vị trên phải trai giới ăn chay ngày 13 đến ngày 15 và ngày 29 đến ngày mồng 1 âm lịch khi tiến hành làm lễ. Các quan đám chỉ được nhận mũ áo và đảm nhiệm việc làng trong một năm từ mồng 2 Tết này cho đến mồng 2 Tết sau. Sau nhiệm kỳ họ sẽ được làng phong Lềnh và rất được trọng vọng. Riêng ông trùm là người lãnh đạo các quan đám sẽ đảm nhiệm vai trò của mình đến lúc gia đình có việc tang trở hoặc qua đời. Khi đó, lễ xin trùm mới lại được tổ chức và chỉ tiến hành vào ngày 15 tháng 3 hoặc 15 tháng 10 âm lịch.
    Nghi lễ xin trùm được thực hiện một cách nghiêm trang và mang đậm yếu tố tâm linh. Người được phong trùm sẽ được chọn trong số các Lềnh. Trước hết, năm quan đám sẽ tiến hành dâng trầu nước, dâng cỗ lễ chay, thắp hương đen lên các ban. Trên bục hành lễ, quan đám đứng trước sẽ đọc tên khấn với nhà thánh xin phép cho vị đứng sau mình được làm trùm rồi quỳ xuống đội chiếc mâm đồng trên có 2 đồng tiền trinh để trên một thoi vàng phủ vải điều, làm lễ khất keo. Khi vị quan đám hơi cúi đầu để gieo lễ thì hai vị quan đám khác khiêng chiếc mâm đồng đệ phía trước đón hai đồng tiền rơi xuống. Lễ khất keo này chỉ được phép thực hiện duy nhất một lần. Nếu hai đồng tiền một sấp một ngửa thì lễ xin trùm đã được chấp thuận. Trường hợp ngược lại thì việc xin trùm phải gác lại cho đến dịp sau và các quan đám sẽ tạm thời đảm trách các công việc của trùm. Lễ xin trùm là một nghi thức tín ngưỡng được đông đảo nhân dân nơi đây quan tâm theo dõi. Theo quan niệm năm nào làm lễ xin trùm thành công thì năm đó và những năm tiếp theo trong vùng sẽ được no đủ.
    Sau khi 5 anh chị em nhà họ Vương về trời,để tưởng nhớ công đức của họ nhân dân trong khu vực đã lập các dền thờ này.Triều đình cũng đã có nhiều sắc phong cho họ.
    Hai bà chị cả được phong là “ mẫu nghi thiên hạ ”.
    Ba người em trai đều được phong Đại vương.
    b/ Theo những nguồn thông tin khác.
    Khi đoàn khí công chúng tôi về đến khu vực có các đền thờ 5 anh em họ Vương,thì đã xác định chính xác thông tin, nơi đây có tên là “Kim Qui Cổ Loan” và chúng tôi đã nhìn thấy rùa vàng xuất hiện.Cái tên “Kim Qui Cổ Loan” thì ngay đến mấy ông từ coi đền cũng không biết.Trong các tài liệu lịch sử thì nơi đây cũng không được xếp vào danh sách Bát Cổ. Nhưng sự thật là như thế,sự thật không phụ thuộc vào tư duy của con người mà nó luôn luôn là chính nó.

    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ Loan rực rỡ rùa vàng,
    Cùng sinh,cùng tử rõ ràng cả năm.
    Mẫu nghi,hai bóng trăng rằm,
    Ba chàng đại tướng,ngự hàng Đại vương.

    8 / Cao Lỗ Đại Vương.
    a/ Theo Sử thuyết
    Cao Lỗ còn gọi là Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần hay ông Nỏ vì có tài bắn nỏ. Ông là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại Bắc Ninh.
    Khi chết, ông trở thành thần bảo hộ cho vùng Việt Trì, Bạch Hạc, nay là phường Bạch Hạc, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nhà Trần đã sắc phong cho ông là “Quả nghị Cương chính Uy huệ Chính thần Đại vương”.
    Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Cao Lỗ là một anh hùng sáng tạo văn hóa, là biểu tượng của trí tuệ, sức mạnh Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước.
    Theo dân gian, khi bị thương nặng ở cổ, tướng quân Cao Lỗ đã buộc lại và thúc ngựa chạy tới Ái Mộ xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm nghỉ một lát rồi lại chạy tiếp về vùng Bình Than, Lục Đầu được ít lâu sau thì mất.
    Dân chúng có lập đền thờ Cao Lỗ ở địa phương: tại Ái Mộ xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, tại xã Quảng An huyện Từ Liêm, Hà Nội, Bắc Ninh, Bình Than, Nghệ An, và tại TP HCM cũng có đền thờ Cao Lỗ ở khu vực Phú Thọ.Ông là người chế ra nỏ liên châu mà còn được gọi là nỏ thần. Nỏ thần bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.
    Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sĩ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", góc Đông Bắc ngoài thành nội ngày nay còn ghi lại dấu vết này.
    Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
    Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi ở ẩn.
    Khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua chạy, quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát và ông đã tử trận.
    b/ Theo những nguồn thông tin khác.
    - Cao Lỗ Đại vương không chỉ là người chế ra nỏ thần mà Cao Lỗ đã tặng NQT “ cổ quang vòng ” đó là PB dùng trong bài Thanh khí khai tâm để khai mở huyệt đạo rất tốt.
    - Còn một kiếp nữa của Cao Lỗ Đại vương khi hóa thân tại VN, đó chính là Phù Đổng Thiên Vương.

    Nên NQT có thơ rằng :
    Cổ Thành linh khí tụ Phao Sơn,
    Về xin Cao Lỗ Đại vương nỏ thần.
    Bỗng nghe ngựa gióng dừng chân,
    Nhận ra Phù Đổng Thiên vương đã về.



    /
    Lần sửa cuối bởi NhuMai, ngày 28-04-2021 lúc 20:30.
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm
     
  4. NguyetQuangTu's Avatar

    NguyetQuangTu viết:

    Mặc định

    I.B/ Lớp học đầu tiên về Bát Cổ.
    Buổi tối 15/9/2010 tại Côn Sơn
    -- Lần này đi Côn Sơn chúng ta sẽ đi đủ 8 ngôi đền thờ Bát Cổ,chúng ta đi đền không giống như những người khác.Sau khi dâng hương tại những đền này,chúng ta sẽ luyện tập ngay tại địa điểm ấy,trong khi luyện tập chúng ta sẽ được các vị Bát Cổ độ trì khai tâm mở huệ cho mọi người.
    Sau khi Thầy đi về với Bát Cổ theo đúng thứ tự như đã nói ở trên thì sau đó cũng có một đoàn khí công lên Côn Sơn luyện tập.Mọi người cũng muốn đi lễ một vòng các vị Bát Cổ. Khi về đền thờ bà chúa Sao Sa thì các vị ấy hỏi bà Chúa :
    - Nếu chúng con đi lễ đền thờ Bát Cổ mà không đi theo đúng thứ tự thì có được không ?
    Cụ trả lời là “ Tùy ”.
    Sau khi làm lễ, mọi người ra ngồi uống nước.Xem chừng mấy vị này cảm thấy áy náy,họ lại bảo nhau vào hỏi lại bà Chúa một lần nữa. Lần này bà Chúa bảo “ Được ”. Thế là cả đoàn rất phấn khởi kéo nhau đi theo lộ trình dễ đi nhất.
    Lần sau đó khi Thầy được gọi về Côn Sơn làm việc thì các Cụ vẫn dặn Thầy : “ Con phải đi cho đúng thứ tự ”
    Đi lễ Bát Cổ mà đi đúng thứ tự thì quả là phức tạp.Từ địa điểm thứ nhất đến địa điểm số 2 khoảng 2km,địa điểm thứ 4 nằm ở giữa địa điểm 1 và 2,địa điểm thứ 3 cách địa điểm thứ 2 khoảng 14 km. Nếu đi theo thứ tự 1-2- 4 – 3 thì phải đi đoạn đường khoảng 16 km,còn nếu đi đúng thứ tự 1-2-3-4 thì sẽ phải đi một đoạn đường khoảng 30 km,tức là từ 1 đi qua 4 đến 2 đi thêm 14 km nữa đến 3 rồi lại quay về 4.Đối với 4 điểm còn lại,nếu đi theo thứ tự 5-7-6-8 cho thuận đường sẽ mất khoảng 20 km,nếu đi đúng thứ tự 5- 6-7-8 thì quãng đường xấp xỉ 40 km.
    Sau này Thầy mới hiểu,đi mỗi một nơi là được dạy một bài,nhưng các bài học sẽ có hiệu quả rất lớn chỉ khi chúng ta đi luyện theo đúng thứ tự.Tu luyện nó cũng phức tạp như thế đấy,có ai đó mà muốn mặc cả trong tu luyện thì đây cũng là một bài học để nhớ đời.Đi lễ hoặc đi vãng cảnh với đi học nó khác xa nhau lắm.
    Từ năm 2004 các Cụ đã dặn Thầy tìm hiểu về Bát Cổ rồi phổ biến cho mọi người biết.Mấy năm nay Thầy cũng mới chỉ kể chuyện về Bát Cổ thôi,hôm nay Thầy mới chính thức giảng về Bát Cổ.
    Bát Cổ chính là hóa thân của Thất tinh thiên trung Bắc đẩu cổ Phật tại Việt nam.
    Có một hôm Thầy hỏi thầy Chu Văn An :
    - Thưa thầy, nếu Bát Cổ là hóa thân của Bắc đẩu cổ Phật thì xin Thầy cho con biết,còn hai vị Bồ tát nữa là Hoa tạng Trang nghiêm Bồ tát và An lạc Tự tại Bồ tát hiện đang ở đâu ?
    - Con về Cửa Ông tìm Bà chúa Suốt và về Chùa Tây phương tìm Hoàng Thái công.
    Khi Thầy tìm về Đền thờ Bà chúa Suốt thì được biết Bà chính là An lạc Tự tại Bồ tát, và Thầy đã làm bài thơ :
    Bà Chúa ngồi đây ngắm biển trời,
    Mây lồng dưới sóng,bồng bềnh trôi.
    Đem tới chúng sinh niềm An lạc,
    Tự tại ung dung mọi kiếp người.

    Khi Thầy tìm về Chùa Tây phương thì được biết,Hoàng Thái công chính là Hoa tạng trang nghiêm Bồ tát,và Thầy đã làm bài thơ :
    Thái công họ Hoàng chùa Tây phương,
    Hoa tạng Trang nghiêm tại Phật đường.
    Đứng đó nghĩ về nơi Bắc đẩu,
    Mà lòng hỷ xả độ muôn phương.

    Như vậy là mọi người đã hiểu được Bát Cổ là ai,và biết được vai trò của Bát Cổ không những chỉ ở Việt Nam mà còn rộng hơn nữa.
    Bây giờ chúng ta sẽ tập một trận khí về Bát Cổ,đó là trận TTTTBĐCPBCTHTĐLQT.Khi đọc trận này lên thì các vị Bát Cổ sẽ về để khai tâm mở huệ cho mọi người và độ trì dạy bảo mọi người luyện tập.
    Lần sửa cuối bởi NguyetQuangTu, ngày 03-11-2010 lúc 17:06.
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm