Kết quả 1 đến 1 của 1
Chủ đề: Vạn Hạnh thiền sư
-
30-12-2020, 12:07 #1
Khách
- Ngày tham gia
- Aug 2010
- Đang ở
- Hà Nội
- Bài viết
- 62
- Cảm ơn!
- 2,898
- Thanked 1,262 Times in 57 Posts
Vạn Hạnh thiền sư
Vạn Hạnh Thiền sư là người có vai trò quan trọng trong việc tham mưu xây dựng quốc gia Đại Cồ Việt. Đặc biệt từ khi nhà Lý mới dựng nghiệp, Thiền sư Vạn Hạnh là người đã có những đóng góp quan trọng trong thời kỳ đầu kỷ nguyên độc lập, tự chủ của dân tộc.
1. Thời cuộc và hành trạng của Thiền sư Vạn Hạnh
Thiền sư Vạn Hạnh, người họ Nguyễn sinh năm 938 mất năm1018, là người làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (nay là làng Đại Đình, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Từ lúc tuổi còn nhỏ đã bộc lộ bản tính thông minh, lớn lên thông cả Nho, Lão, Phật. Sư được sinh ra đúng lúc Ngô Quyền xưng vương và lập võ công hiển hách chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho dân tộc Việt Nam.
Năm 21 tuổi, ngài xuất gia ở chùa Lục Tổ cùng với Sư Định Tuệ theo Thiền Ông đạo giả. Từ tuổi tráng niên cho đến tuổi trung niên, ngài đã được Thiền Ông trao truyền cho những yếu chỉ của Thiền tông và chính trong thời gian này, ngài chuyên tâm trau dồi kiến thức, ngày đêm khổ luyện học tập kinh kệ, tham khảo sử sách.
Năm 979, Thiền Ông viên tịch, Sư Vạn Hạnh đã được thầy truyền cho tâm ấn trụ trì, chuyên tâm tập phép Tổng trì tam ma địa. Sau hơn 20 năm thụ giáo với Thiền Ông, Vạn Hạnh Thiền sư đã thu được những điều huyền vi của giáo lý.
2. Nhập thế giúp vua xây dựng đất nước
Ông xuất gia vào khoảng năm 958, là khi nhà Đinh rối ren, từ loạn Dương Tam Kha (945) đến việc Ngô Xương Ngập bệnh chết rồi đến em là Ngô Xương Văn tử trận. Lê Hoàn lên ngôi thay nhà Đinh, đánh thắng quân Tống, tiếp tục củng cố chính quyền nhà nước tự chủ trong tình thế thù ngoài loạn trong. Là người theo thiền Tỳ Ni Đà Chi Lưu có yếu tố Mật giáo, gần cận với tín ngưỡng thần linh dân gian, chủ trương đi sát với quần chúng Nhân dân, biến nhà chùa thành nơi nương tự tinh thần cho dân chúng, sẵn sàng tham gia hành động chính trị xã hội, cùng với tinh thần yêu nước sâu sắc, sư Vạn Hạnh đã chủ động nhập thế vào công cuộc chung của dân tộc. Sử sách không chép nhiều những việc cụ thể ông đã tham gia với triều Tiền Lê nhưng qua một số thư tịch cổ cho phép chúng ta nghĩ đến sự đóng góp to lớn của ông với vua Lê Đại Hành.
Ngài là một trong những bậc anh tài trí thức Phật giáo làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành, Năm Thuận Thiên thứ hai (982), khi Vua Lê Đại Hành cử Từ Mục, Ngô Tử Anh đi sứ Chiêm Thành, bị Vua Chiêm bắt giữ, nhà Vua rất tức giận muốn cất quân sang đánh Chiêm Thành, vì Chiêm Thành không thần phục, nhưng còn do dự chưa cất quân. Khi xin ý kiến Quốc sư Vạn Hạnh, Ngài trả lời: “Nên xuất quân sang đánh, nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội và không kịp thời nữa”. Quả thật, khi quân Đại Việt sang đánh Chiêm Thành, dành được chiến thắng, bắt cả Vua Chiêm là Bề Mi Thuế. Nhà nước Chiêm Thành đã thần phục và triều cống Nhà Lê, giữ vững bờ cõi Phương Nam một thời gian, dân chúng an cư lạc nghiệp, thiên hạ thái bình, thịnh trị.
Cho đến cuối Triều Lê, nhất là khi Lê Đại Hành băng hà năm 1005, con là Lê Trung Tông lên kế vị được 3 ngày thì bị Lê Long Đỉnh sát hại, tiếm ngôi và lên làm vua, nên không tạo được sự ủng hộ của nhân dân, cũng như trong nội bộ triều đình, trong nước thì có một vài địa phương nổi lên chống đối triều đình như Châu Đô Lương, Vị Long, Án Động, Hoan Châu, Hoàng Đường, Thiên Liễu đã tạo sự bất ổn trong nước, có ảnh hưởng đến sự tồn vong của Triều đại. Điều không may xảy ra là Lê Long Đỉnh ngã bịnh, nằm tại giường (Long sàng) thiết triều, nên thường gọi là Lê Ngọa Triều, đến năm 1009, thì băng hà. Vua con còn nhỏ, không thể kế vị được. Do đó, Chi hầu Đào Cam Mộc và Quốc sư Vạn Hạnh cùng Thiền sư Đa Bảo đã hội ý quần thần, đưa quan Thân vệ Lý Công Uẩn (974 – 1028) lên ngôi, kết thúc Triều Lê, mở đầu Nhà Lý (1009 – 1225).
Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, với tầm nhìn phóng khoáng, muốn phát triển đất nước thì cần phải có một Kinh đô xứng tầm, là trung tâm văn hóa, chính trị, xã hội của cả nước, vì Kinh đô Hoa Lư bấy giờ đã quá nhỏ hẹp, không đáp ứng việc phát triển Quốc gia Đại Việt. Do đó, Quốc sư Vạn Hạnh đã hiến kế cho Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, Thăng Long, Hà Nội ngày nay. Ngày 10 tháng 7 năm Canh Tuất (1010), Vua Lý Thái Tổ chính thức dời đô, và định đô tại Thăng Long – Hà Nội. Ngay sau khi định đô, Vua Lý Thái Tổ đã đổi Châu Cổ Pháp thành Phủ Thiên Đức, cố đô Hoa Lư thành Phủ Tràng An. Việc dời đô do Quốc sư Vạn Hạnh hiến kế đã mở đầu triều đại nhà Lý (1010 – 1225) huy hoàng, hưng thịnh và phát triển gần 300 năm, rồi ảnh hưởng tiếp đến Triều Trần (1225 – 1400) gần 200 năm, tổng cộng trên 500 năm đã đưa Phật giáo lên hàng Quốc đạo của Đại Việt. Quả thực, công đức của Thiền sư Vạn Hạnh là một công đức vô cùng lớn lao đối với Dân tộc và Phật giáo Đại Việt và cho đến ngày nay và mãi mãi về sau.
Cuối cùng, Ngài cũng theo lý vô thường, đến đi tự tại, sinh tử nhàn nhi dĩ, viên tịch ngày Rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), có thuyết cho là ngày Rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025), thọ 90 tuổi. Trước khi viên tịch, Ngài có để lại bài kệ phó chúc cho đệ tử như sau:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ Xuân tươi, Thu đượm hồng
Mặc vận thạnh suy không sợ hãi
Thạnh suy đầu cỏ hạt sương đong.
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô).
Vua Lý Thái Tổ và đệ tử cử hành Lễ Trà tỳ Quốc sư Vạn Hạnh, xá lợi tôn trí tại Bảo tháp chùa Lục Tổ, Tiêu Sơn, làng Địch Bảng, phủ Thiên Đức, xứ Kinh Bắc (Thành phía Bắc Kinh Đô Thăng Long) Bắc Giang, nay là huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Để tưởng nhớ và ghi tạc công đức của Ngài, Tượng Ngài được thờ tại chùa Tiêu Sơn (Chùa Lục Tổ), huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
-
16 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới kiencuong304
bần tăng (30-12-2020),cảnh thắng (31-12-2020),Hoa Cát Tường (30-12-2020),hoanlinh (06-09-2021),hoatran (07-01-2021),manhtuongngo (30-12-2020),NguyetQuangTu (31-12-2020),Phương Nam (31-12-2020),Tamhuongthien (31-12-2020),tamminh (31-12-2020),THANHTINH (03-01-2021),thanhvinh (06-04-2021),theoThầy (02-01-2021),Trung Nghĩa (30-12-2020),TuMinh (31-12-2020),ĐINHQUANG HIỆP (30-12-2020)