Kết quả 1 đến 1 của 1
-
30-11-2019, 10:38 #1
Học trò
- Ngày tham gia
- Jul 2010
- Bài viết
- 240
- Cảm ơn!
- 172
- Thanked 10,131 Times in 246 Posts
Truyện ngắn Nguyệt Quang Tử-K2-P2
,
.
4/ Tam tổ Trúc lâm.
a/ Đệ nhất sư tổ Trần Nhân Tông.
1/ Theo tài liệu lịch sử.
Dạy dân tu Thiền giáo,yêu đạo - yêu đời,
Dẹp giặc độ chúng sinh,làm Vua – làm Phật.
2/ Từ những nguồn thông tin khác.
- Kể từ năm 1308 sau khi nhập niết bàn, đệ nhất Sư tổ của Thiền phái trúc lâm Yên tử luôn đau đáu việc đi tìm truyền nhân cho bổn phái.Thế rồi Ngài đã tìm được.
Ngày 30/3/2006 Điều ngự Giác Hoàng Trúc Lâm Sư Tổ đã tặng Kiếm và sách cho một người kèm theo bài thơ:
Thiên thu nay đã thỏa ước nguyền
Gươm thiêng trao trọn với niềm tin.
“ Định pháp vô minh” ta truyền lại,
Cho con giữ mãi một đức tin.
YT : 30/3/2006
“Định pháp Vô minh” là cuốn sách ghi lại những tinh hoa của Thiền phái Trúc Lâm, hay nói cách khác đó chính là Y – Bát của Thiền phái mà Sư Tổ đã trao lại cho Nguyễn Quyết Tâm.
- Hiện nay Sư tổ là người chủ trì việc “ Hoằng dương Phật pháp” tại Việt Nam.
b/ Đệ nhị Sư tổ : Pháp Lòa .
1/ Theo tài liệu lịch sử.
Ngài tên thật là Đồng Kiên Cương, sinh năm Thiệu Bảo thứ sáu (1284) ngày mùng 7 tháng 5, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trước khi sinh Ngài, mẫu nằm mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm, bà thích lắm nhận lấy. Từ đó, bà biết có thai. Vì trước kia bà sinh liền tám người con gái nên chán ngán, phen này bà cố tình uống thuốc phá thai, nhưng đều vô hiệu. Đến khi sinh ra Ngài, bà mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Ngài thiên tư dĩnh ngộ, miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá.
Niên hiệu Hưng Long thứ mười hai (1304), Điều Ngự Giác Hoàng(Trần
Nhân Tông) đi các nơi, phá dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng) và ban pháp dược. Khi đến mạn sông Nam Sách thì Trần Nhân Tông gặp Ngài đến lễ bái xin xuất gia, năm này Ngài mới hai mươi mốt tuổi. Điều Ngự trông thấy bằng lòng, nói: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí, vui vẻ tự đến đây.” Điều Ngự bèn cho hiệu là Thiện Lai, dẫn về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn cạo tóc và thọ giới Sa-di. Sau đó cho đến tham vấn với Hòa thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, Ngài tìm đủ cách thưa hỏi mà không được khai ngộ. Ngài tự đọc bộ kinh Hải Nhãn (có lẽ kinh Lăng Nghiêm) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ khách trần ở sau, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Ngài ngộ ra. Ngài từ tạ Hòa thượng Tánh Giác, trở về tham yết với Điều Ngự.
Gặp lúc Điều Ngự thượng đường, Ngài ra thưa hỏi, Điều Ngự nhận biết bèn cho Ngài theo hầu hạ . Một hôm, Ngài trình cả ba bài tụng, đều bị Điều Ngự chê cả. Ngài thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham vấn lấy. Ngài vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy hoa đèn tàn rụng xuống, Ngài chợt đại ngộ
Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Điều Ngự đưa Ngài lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát. Thấy chỗ tham học của Ngài đã thành đạt, Điều Ngự cho hiệu là Pháp Loa.
Năm Hưng Long thứ mười lăm (1307), Ngài được hai mươi bốn tuổi, Điều Ngự trụ ở am Thiên Bảo Quan có bảy tám người Thị giả mà Ngài là đứng đầu. Điều Ngự giảng Đại Huệ Ngữ Lục cho Ngài. Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bồ-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự bảo mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Ngài rồi dạy : “Phải khéo gìn giữ”.
Năm Hưng Long thứ mười sáu (1308) vào ngày mùng một tháng giêng, Ngài vâng lệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp Trụ trì tại nhà Cam Lồ chùa Siêu Loại. Khai lễ có vua Anh Tông và đình thần đến dự. Điều Ngự lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Ngài giảng đạo. Lễ xong, Điều Ngự giao cho Ngài kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử.Ngài là Tổ đời thứ hai của phái Trúc Lâm Yên Tử. Điều Ngự còn trao cho Ngài hơn hai trăm bộ kinh sử và bảo Vua Anh Tông sung cúng vào chùa cả trăm khoảnh ruộng.
Tháng mười một năm ấy (1308), Điều Ngự tịch, Ngài phụng mạng cung nghinh xá-lợi về kinh đô. Trở về núi, Ngài soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.
Năm Hưng Long thứ mười chín (1311), Ngài phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh. Ngài giao cho Bảo Sái làm chủ việc này. Tháng tư, Ngài giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó, Huyền Quang trình kiến giải, đều được Ngài chấp nhận.
Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (1313) vào tháng 9, Ngài phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang định chức cho Tăng đồ. Chúng Tăng từ đây mới có sổ bộ, chính Ngài là người cầm sổ bộ ấy. Lúc đó, Ngài độ cho hơn một ngàn vị Tăng. Về sau cứ ba năm một lần độ Tăng như thế.
Năm Đại Khánh thứ tư (1317) đời Trần Minh Tông, vào tháng 2, Ngài bị bệnh nặng. Ngài đem y bát và viết bài tâm kệ trao cho Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít hôm, bệnh Ngài được lành.
Những hàng Thái hậu, Công chúa, Vương công, quí khanh đều thỉnh Ngài truyền giới xuất gia hoặc giới Bồ-tát, cho đến vua Trần Anh Tông cũng được Ngài xem như đệ tử. Mọi người đua nhau cúng đất, vàng, tiền để Ngài lập chùa, đúc tượng Phật, in kinh quá nhiều, đến nỗi Ngài phải tự xin giảm dần những số quyên cúng, thuyền của Vua cấp cho Ngài tiện việc đi lại và về kinh đô, Ngài cũng từ chối không nhận.
Năm đầu Khai Hựu (1329) đời Trần Hiến Tông, Ngài mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn, làm thành danh lam thắng cảnh.
c/ Đệ Tam Sư Tổ Huyền Quang
1/ Theo tài liệu lịch sử.
Ngài tên Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ là Huệ Tổ dòng dõi quan lại, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà Ngài ở phía nam chùa Ngọc Hoàng. Năm Ngài sinh, một hôm thầy Trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư Huệ Nghĩa tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội đông đủ, Kim cang Long thần đủ cả, Phật chỉ Tôn giả A-nan bảo: “Ngươi thác sanh làm pháp khí cõi đông.” Có ông đạo gõ cửa, ông chợt tỉnh giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa:
ÂM:
Nhân chi vị đạo khởi tha tầm
Tâm tức Phật hề Phật tức tâm
Huệ địch kiết tường vi ảnh hưởng
Thử sanh tất kiến hảo tri âm.
DỊCH:
Người mà vì đạo chớ tìm đâu,
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu.
Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng,
Đời này ắt gặp bạn tâm đầu.
Thuở nhỏ Ngài dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mế yêu,được dạy cho nhiều học thuật. Ngài học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ 2 (1274), đời vua Trần Thánh Tông, Ngài thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy mới có hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Ngài, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả Công chúa cho, Ngài vẫn từ chối.
Ngài được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương kiến thức của Ngài vượt hơn hẳn sứ Trung Hoa, khiến cho họ phải nể phục.
Một hôm, Ngài theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Ngài chợt tỉnh ngộ rồi tự ngẫm: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới Tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quí như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên lưu luyến!”
Ngài mấy phen dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua cũng rất mến trọng Phật giáo, nên cuối cùng cũng cho Ngài xuất gia. Đến niên hiệu Hưng Long thứ 13 (1305), Ngài xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm Thị giả Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, được Điều Ngự đặt pháp hiệu là Huyền Quang.
Niên hiệu Hưng Long thứ 17 (1309), Ngài theo hầu Pháp Loa, theo như lời phó chúc của Điều Ngự. Ngài vâng lệnh, trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Ngài đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học trò bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên, không dưới ngàn người.
Ngài thường phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm Kinh, Công Văn v.v… Những khoa giáo trong nhà thiền mọi thứ đều do Ngài xem,duyệt cả.
Ngày rằm tháng giêng năm Quí Sửu (1313) vua Anh Tông mời Ngài về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Ngài dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân dịp này, Ngài lập ngôi chùa ở phía tây nhà Ngài lấy hiệu là chùa Đại Bi.
Ngài trở về chùa Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Ngài nên cho Điểm Bích là một cung nữ cố tìm mọi cách để gần gũi Ngài,và lấy được bằng chứng đem về dâng Vua. Điểm Bích dùng gian kế gợi lòng dục của Ngài,nhưng chưa bao giờ Điểm Bích thành công. Trong những buổi lễ chẩn tế của Ngài, thường thấy xuất hiện những sự linh nghiệm lạ thường,từ đấy nhà vua không còn nghi ngờ gì nữa.
Năm Đại Khánh thứ tư (1317), Ngài được Pháp Loa truyền y bát và giao tâm kệ .
Năm 1330, khi Tổ Pháp Loa viên tịch, Thiền sư Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, bấy giờ Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Tuy nhận trọng trách lãnh đạo Giáo hội, song vì già yếu nên Ngài ủy thác mọi việc cho Quốc sư An Tâm, trở về trụ trì ở Côn Sơn Tự.
Đệ nhị Sư tổ trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm. Sau đó sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Đệ nhị Sư tổ viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám mươi tuổi.
Vua Trần Minh Tông phong thụy là TRÚC LÂM THIỀN SƯ ĐỆ TAM ĐẠI, đặc phong TỪ PHÁP HUYỀN QUANG TÔN GIẢ.
b/ Từ những nguồn thông tin khác.
- Là một Thiền sư đồng thời là một học giả uyên thâm, chỉ với 4 câu
thơ Ngài tặng cho Nguyễn Quyết Tâm mà đã dạy cho Nguyễn Quyết Tâm hiểu được những lẽ cao siêu của Thiền phái đồng thời chính là phương châm tu luyện cả đời cho học trò:
Đời đạo song tu mấy kiếp người,
Gieo niềm hạnh phúc đã bao nơi.
Vui mà hành thiện, tâm con thiện,
Buồn mà hành thiện, con thiện tâm
[I]YT : 30/3/2006[/I]
- Sư tổ luôn luôn hết lòng vì học trò, theo dõi dạy bảo học trò ở mọi nơi mọi lúc. Khi thấy học trò chăm chỉ và thành đạt, Ngài vui lắm. Khi đến thăm học trò, thấy học trò đang luyện tập Ngài đã tặng Nguyễn Quyết Tâm bài thơ :
HUYỀN huyền, ảo ảo một cõi trần,
QUANG minh chiếu rọi khắp muôn dân.
SƯ tăng thiền định, tâm hướng Phật,
TỔ tông truyền dạy được mấy nhân.
HN 2007
Kết luận :
Thiền phái Trúc lâm Yên Tử là một phái của đạo Phật tại Việt Nam, có qui mô sâu rộng, có ảnh hưởng mãi mãi đến tư duy tâm linh của dân tộc.
Huyền Thiên Cổ Tự một ngôi chùa cổ linh thiêng tại linh địa Côn Sơn là nơi mà Tam tổ Trúc lâm đã tu luyện, đã hành đạo
Nguyễn Quyết Tâm có thơ rằng :
Cổ tự Huyền Thiên,thông vẫn xanh,
Chênh vênh sườn núi,điểu nghe kinh.
Lan xa,tiếng mõ khua rừng vắng,
Hay lòng Tam tổ độ chúng
5/ Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
a/ Theo tài liệu lịch sử.
Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, Chí Linh. Từ nhỏ đã có tướng mạo xấu xí nhưng tư chất thông minh, lại rất chăm chỉ học hành, có tài ứng đối mau lẹ.
Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (năm 1304), ông đi thi đỗ Trạng Nguyên. Nhà vua cho vời vào cung để ban áo mão cân đai, nhìn thấy Tân Trạng chỉ là một chàng trai có vóc người nhỏ thấp, tướng mạo xấu xí, vua Anh Tông có ý không muốn dùng. Ồng bèn dâng bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú” (bài phú: Sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Vua xem xong bài phú, từng câu, từng chữ như khiến Người bừng tỉnh và thốt lên: "Mạc Trạng nguyên quả là bậc thiên tài, có tiết tháo".
Quan Trạng rất được lòng dân bởi đức tính thanh liêm, về sau làm đến chức Tả Bộc Xạ (Thượng Thư).
Mạc Đĩnh Chi là người rất liêm khiết, thẳng thắn, được tiền không lấy làm của riêng, giàu sang phú quý đối với ông không có ý nghĩa gì, cho nên được người đời ca tụng.
Một lần, vào năm 1323, vua Trần Minh Tông cho gọi viên quan nội thị đến nói nhỏ :
- Nghe nói các quan và dân chúng đều xem Mạc Đĩnh Chi là người liêm khiết, thẳng thắn lắm. Trẫm định thử xem có đúng như thế chăng?
Nói đoạn , vua Minh Tông lấy 10 quan tiền đặt vào tay viên quan nội thị, rồi ghé sát tai thì thầm to nhỏ. Viên quan nội thị tâu :
- Thần sẽ làm đúng như ý bệ hạ sai bảo.
Sáng ấy, Mạc Đĩnh Chi dậy sớm hơn thường lệ. Trời còn chưa sáng rõ , ông đã tập xong hai bài quyền. Ông vươn người hít thở không khí trong lành của buổi sớm ban mai. Xong công việc thường lệ, ông lững thững vào nhà. Vừa bước lên bậc cửa, bỗng ông kêu lên kinh ngạc :
- Ô kìa ! tiền của ai đánh rơi mà nhiều thế kia?
Ông nhặt lên đếm, vừa tròn 10 quan. Ông thầm nghĩ : "Quái! Đêm qua không có ai lại chơi, sao có tiền rơi?". Ông vội vã khăn áo chỉnh tề, vào yết kiến nhà vua :
- Tâu bệ hạ, thần sáng nay có bắt được 10 quan tiền ở trước cửa nhà, hỏi khắp cả mà không ai nhận, thần xin trao lại để bệ hạ trả lại kẻ mất của.
Vua Minh Tông mỉm cười gật đầu :
- Không ai nhận tiền ấy thì người cứ lấy mà dùng.
- Thưa bệ hạ , tiền này không ít, người mất của chắc xót xa lắm, nên
tìm người trả lại thì hơn.
- Nhà ngươi yêu tâm, cứ giữ lấy mà dùng. Tiền thưởng lòng chính trực , liêm khiết của nhà ngươi đấy.
Mạc Đĩnh Chi bấy giờ mới vỡ lẽ ra là nhà vua đã thử lòng ông. Ông chào tạ ơn rồi trở về.
Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi nhận chiếu chỉ của vua Anh Tông đi sứ nhà Nguyên – Trung quốc. Dạo ấy vào đầu mùa hạ, tuy trời ít mưa, nhưng đã mưa thì mưa như đổ nước từ trên trời xuống; đường xá, đồng ruộng, nước trắng băng một màu, việc đi lại gặp trở ngại lớn. Chính vì vậy mà đoàn sứ bộ đến quan ải chậm mất hai ngày. Quan coi ải một mực không cho qua. Mạc Đĩnh Chi bực lắm, toan quay trở về nhưng nghĩ đến mệnh vua mà mình gánh vác chưa trọn nên nán lại xin quan coi ải mở cửa cho đi. Ngẫm nghĩ hồi lâu, Phong Lũy là viên quan coi ải nói :
- Nghe nói ngài là người có tài văn chương, tài ấy sao không sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một vế câu đối, nếu đối thông suốt, sẽ mở cửa ải; bằng không, xin mời ngài quay lại .
Yên lặng giây lát, viên quan nọ hí hửng ra vế đối :
- Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.
(Đến cửa ải chậm, cửa ải đóng, mời khách đi qua cửa ải )
Không cần suy nghĩ lâu, Mạc Đĩnh Chi đối ngay :
- Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.
(Ra đối thì dễ, đối lại thì khó, mời tiên sinh đối trước).
Quan coi ải vái ông hai vái, tỏ ý phục tài, rồi mở cửa cho đi.
Một buổi chiều hè, trời nắng như đổ lửa,đoàn sứ thần của Mạc Đĩnh Chi lúc ấy đi qua một quán nước ven đường. Mạc Đĩnh Chi cho mọi người nghỉ lại. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đon đả chào khách. Cạnh đấy không xa có một giếng khơi, nước trong xanh. Trên thành giếng có viết 5 chữ: "Ngân bình, kiện thượng tị". Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chậm rãi kể :
- Xưa có một cô gái bán hàng nước học hành giỏi, chữ nghĩa thông. Gần đây, có một anh học trò muốn ngấp nghé, cứ ngày ngày đi học về, lại vào uống nước tìm lời trêu ghẹo. Một hôm cô hàng nước nói thực với anh:
- Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng
con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa, Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một vế đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây làm gì nữa. Anh học trò bằng lòng. Cô hàng, nhân trông thấy cái ấm tích bằng bạc, mới ra vế đối rằng:
"Ngân bình, kiện thượng tị "
(Bình ngọc, mũi trên vai. Ý nói cái vòi trên cổ ấm )
Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống giếng đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được .
Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười :
- Câu ấy dễ thế sao không đối được, mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm, giản oan cho hồn kẻ thư sinh.
Mạc Đĩnh Chi bèn đọc :
"Kim tỏa, phúc trung tu"
(Khóa vàng, râu trong bụng. Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa).
Sau đó, Mạc Đĩnh Chi bèn sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh vế đối của cô hàng nước năm xưa.
Mọi người đều chịu ông là đối giỏi.
Trong buổi yết kiết hoàng đế nhà Nguyên, còn có cả sứ thần Triều Tiên. Vốn nghe danh trạng nguyên nước Việt, người xấu xí nhưng ứng đối như thần, vua Nguyên muốn nhân dịp này thử tài hai vị sứ giả.
Trong lúc đang phân vân thì có người vào triều dâng lên chiếc quạt rất đẹp, vua Nguyên liền bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Với sự nhanh trí kì lạ, ông đề:
"Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư thì hề. Y Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề. Di Tề ngã phu.
Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù."
Dịch nghĩa:
[COLOR="#000080"]"Chảy vàng, tan đá, trời đất là lò lửa, thì lúc ấy quạt như Y Doãn, Chu Công, là những người tài giỏi".
Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, lúc ấy quạt như Bá Di, Thúc Tề, là những ông già chết đói.
Ôi! Dũng thì thành đạt, bỏ thì xếp xó. Chỉ có ta và người là như thế chăng?"[/COLOR]
Bài của Mạc Đĩnh Chi làm xong trước, ý sắc sảo, văn lại hay thể hiện cái tài và cái tâm của người làm việc lớn. Triều thần nhà Nguyên nhìn nhau trầm trồ thán phục.
Lần đi xứ ấy, ông thể hiện tài ứng đối và ngoại giao kiệt xuất, trí tuệ uyên bác của người Việt Nam đã được tỏa sáng rực rỡ tại đất nước Trung Quốc, làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính nể. Vua Nguyên phong Mạc Đĩnh Chi là Lưỡng quốc Trạng nguyên.
Cuối đời, Mạc Đĩnh Chi về chí sỹ tại quê nhà mở trường dạy học gần gò Hạc, xã Linh Khê - nay là xã Thanh Quang. Tại đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở thôn Long Động, xã Thanh Quang, các di tích trên hiện vẫn còn, đang được nhân dân và chính quyền địa phương tu tạo, quy hoạch và đầu tư xây dựng lại.
b/ Từ những nguồn thông tin khác
Khi Mạc Ðĩnh Chi sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô. Người làng thường bảo đó là con tinh khỉ nghiệm vào. Nhưng ông lại rất thông minh, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Ðời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), ông đi thi, văn bài làm trội hơn mọi người nhưng vì mắt mũi xấu xí nên nhà vua không muốn cho ông đỗ. Ông bèn dâng bài phú" Ngọc tỉnh lên "( Hoa sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Trong bài phú có những câu như:
... Phi đào lý chi thô tục, phi mai trúc chi cô hận, phi tăng phòng chi cẩu kỷ, phi Lạc thổ chi mẫu đơn, phi Ðào lệnh đông ly chi cúc, phi Linh Quân cửa uyển chi lan.
Nãi Thái Hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên...
Nghĩa là:
Chẳng phải như đào trần, lý, tục ; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy
Cẩu kỳ phòng tăng khó sánh ; mẫu đơn đất Lạc nào bì
Giậu đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân, lan sá kể gì
ẤY LÀ GIỐNG SEN TRONG GIẾNG NGỌC Ở ĐẦU NÚI THÁI HOA VẬY!...
Vua xem xong bài phú, tỏ ý rất cảm phục, liền cho Mạc Ðĩnh Chi đỗ trạng nguyên . Về sau ông làm tới chức tả bộc xạ ( thượng thư) và là ông quan thanh liêm, được nhân dân rất yêu mến./
- Có lần mấy người theo học khí công về dâng hương tại đền Cụ. Cụ dùng ngón tay búng một cái, có những tia sáng bắn ra bay thẳng vào não bộ từng người. Khi hỏi lại: “Cụ vừa cho chúng con cái gì ?” Cụ trả lời: “Đó là tinh tuệ, nó có tác dụng làm cho não minh mẫn hơn.”
Nguyễn Quyết Tâm có thơ rằng :
Cổ Trai Long Động sáng lung linh,
Hoa sen giếng ngọc,tự ví mình .
Lưỡng quốc trạng nguyên,lừng danh tiếng.
Tinh tuệ trời Nam được chứng minh.
6/ Quốc phụ Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn
a/ Theo tài liệu lịch sử.
Trần Quốc Chẩn là thân sinh của hoàng hậu. Hoàng hậu sống với vua đã lâu mà không sinh được hoàng tử. Triều thần bấy giờ chia làm hai phe: phe của Cương Đông Văn Hiến hầu (không rõ tên) và Trần Khắc Chung muốn giảm bớt thế lực của phe Trần Quốc Chẩn nên tâu vua xin lập hoàng tử Vượng là con của bà hoàng phi Lê Thị làm thái tử. Còn phe của Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn thì xin vua chờ cho hoàng hậu sinh hoàng nam rồi hãy lập thái tử. Vua Minh Tông phân vân chưa quyết. Giữa lúc hai bên còn đang giằng co thì Văn Hiến hầu cho tên Trần Phẫu là gia thần của Trần Quốc Chẩn một trăm lạng vàng và xui nó tố cáo Trần Quốc Chẩn âm mưu làm phản.
Trước những chứng cớ do bọn gian thần tạo ra,Trần Quốc Chẩn không thể tự thanh minh được.Trần Quốc Chẩn vừa là Quốc trượng,vừa là một vị quan thanh liêm, chính trực đứng đầu triều đình.Không chỉ thế Trần Quốc Chẩn còn là một Võ tướng có công lớn trong việc đánh dẹp Chiêm Thành,một trụ cột của triều đình lúc bấy giờ.Vua Trần Minh Tông cũng phân vân lắm,ngoài những chứng cớ làm phản thì Trần Quốc Chẩn chẳng có lỗi gì.Nhà vua không nỡ cho chém đầu Ông,mà sai bắt Quốc Chẩn đem giam ở chùa Tư Phúc.
Trần Khắc Chung lại tâu vua xin trừ Quốc Chẩn đi, lấy cớ rằng "bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Vua Minh Tông cũng đành nghe theo, rồi cấm không cho Quốc Chẩn ăn uống, để cho chết đói.
Hoàng hậu đến thăm cha, không thể mang thức ăn vào được, chỉ lấy áo nhúng nước rồi mặc vào, đến nơi vắt nước ra cho cha uống để đỡ khát. Trần Quốc Chẩn uống xong thì chết.
Về sau, người vợ lẽ của Trần Phẫu ghen nhau với vợ cả, đi tố cáo chuyện Trần Phẫu nhận vàng và vu cáo cho Trần Quốc Chẩn nên mọi việc sáng tỏ. Bấy giờ triều đình và dân chúng mới hiểu được nỗi oan của bậc trung thần. Ngục quan Lê Duy là người trung trực, xét xử ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị kết án lăng trì (tùng xẻo). Văn Hiến hầu vì là người của hoàng tộc nên được miễn tội chết, chỉ bị giáng xuống làm dân thường, xóa tên trong sổ hoàng tộc.
Vì việc ấy mà vua Trần Minh Tông ân hận lắm,chính Ông : Một minh Quân lại đi giết oan một người bố vợ,một vị tướng tài,một trung thần bậc nhất của triều đình.
b/ Từ những nguồn thông tin khác.
- Mặc dù mắc phải cái chết oan nghiệt như thế nhưng sau khi từ bỏ thế giới này,ông vẫn vui vẻ làm việc giúp dân, giúp nước. Ông vẫn đang đi hành đạo và giúp đỡ những người khác hành đạo.
Ông đã tặng Nguyễn Quyết Tâm bài thơ:
Quốc phụ ta đây ,vẫn mỉm cười,
Giúp con hành đạo khắp muôn nơi.
Con đi hành đạo,ta hành đạo,
Cũng bởi nhân duyên tự kiếp nào.
Yên Tử Ngày 30/3/2006
- Hiện nay Trần Quốc Chẩn phụ trách toàn bộ vấn đề trạch cát của đất nước. Ông vẫn đang chỉ đạo người của Ông hoàn thiện và giữ gìn tất cả các mạch đất của Tổ quốc. Thể theo yêu cầu của Nguyễn Quyết Tâm Ông còn cho người đến hoàn thiện các mạch đất cho từng gia đình lương thiện có trái tim trong sáng nhưng không may làm nhà trên một mảnh đất xấu.
- Trần Quốc Chẩn vẫn sống rất giản dị, Ông thường mặc bộ quần áo gụ như một nông dân, Ông thíchtrải chiếu xuống đất ngồi uống rượu.
Nguyễn Quyết Tâm có thơ rằng :
Cổ Trạch, về thăm Quốc Trượng.Đi...
Chuyện buồn ngày ấy kể làm chi.
Thiên văn,Địa lý lòng thông tỏ,
Trải chiếu ngồi đây,uống rượu.Khì...
7/ Năm anh em họ Vương.
Tại xã An Lạc-Chí Linh-Hải Dương có một quần thể di tích gồm có 4 ngôi đền và một ngôi chùa. Đền Cả là ngôi đền thờ 2 bà Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu, đồng thời Đền Cả cũng là nơi thờ chung của nhà họ Vương. Bên cạnh Đền Cả có chùa Cả đã hơn 1000 năm tuổi.
Từ Đền Cả đi một đoạn xa nữa thì đến đền Cao, đền Cao tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Bồng, nơi đây thờ Thiên Bồng Đại tướng quân Đại vương Vương Đức Minh. Ngay phía sau đền Cao có một đền nhỏ để lộ thiên gọi là đền Thánh hóa. Ở gần phía bờ sông có hai ngôi đền nữa, đền Bến Cả thờ Anh dũng Vũ lược Đại vương Vương Đức Hồng, đền Bến Tràng thờ Dực thánh Linh ứng Đại vương Vương Đức Xuân.
a/ Truyền thuyết nói rằng :
Hai ông bà họ Vương quê tận Thanh Hóa nhưng đã đưa nhau ra sinh sống tại đất Hải Dương.Một hôm bà đi tắm sông thấy có một con rồng cuốn quanh người,về nhà bà đã mang thai. Đến kỳ sinh nở,bà sinh ra hai người con gái và ba người con trai.Các con được cha mẹ thương yêu hết lòng,chăm sóc tận tình.Khi lớn lên cả 5 chị em đều là những người thông minh xuất chúng.Cha mẹ đã kén Thầy dạy họ cả văn cả võ.Năm chị em đều ăn chay từ nhỏ và họ đều văn võ song toàn.
Không may cha mẹ gặp tai nạn bị chết,năm chị em chôn cất cho cha mẹ xong thì đều ở nhà chịu tang. Trong thời gian này Lê Hoàn đang lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống lại quân Tống xâm lược. Lê Hoàn có một đại bản doanh đóng tại Xã An Lạc - Chí linh. Một hôm tình cờ Lê Hoàn nhìn thấy anh em nhà họ Vương, Ông phát hiện ra họ là những con người có tướng mạo phi phàm,Ôn g cho gọi lại hỏi chuyện. Khi được biết năm anh chị em nhà này đều văn võ song toàn thì ông mừng lắm. Khi Lê Hoàn hỏi vì sao mấy anh chị em đều là những người có tài mà không ra giúp dân, giúp nước chống giặc ngoại xâm. Anh em nhà họ Vương trả lời, họ rất muốn tham gia cuộc chiến chống giặc ngoại xâm nhưng hiềm vì còn đang phải chịu tang cha mẹ. Nghe xong Lê Hoàn phân tích cho họ thấy, việc nhà là việc nhỏ, việc nước là việc lớn. Nếu bọn giặc Tống đánh sang đến đây thì liệu anh em họ có còn ngồi nhà mà chịu tang cha mẹ được chăng. Hiểu ra lẽ phải, cả năm anh chị em nhà họ Vương đều tham gia vào quân đội của Lê Hoàn.
Năm anh em nhà họ Vương đã trở thành 5 vị tướng có công rất lớn trong việc dẹp yên giặc Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập của nước nhà.
Sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm, vua Lê Hoàn có ý phong quan chức cho các vị tướng có công trong cuộc kháng chiến, nhưng cả 5 anh em họ Vương đều từ chối không nhận. Tại đền Thánh hóa ( phía sau đền Cao) cả 5 anh chị em họ đều hóa thân và bay về trời.
Tại đền Cao, từ hàng ngàn năm nay dân làng vẫn duy trì được một nghi lễ đặc biệt đó là “Lễ xin trùm”
Trong ngày đại lễ, đền được trang hoàng ấn tượng. Chính giữa nơi hành lễ là một tấm biển lớn trên có chữ “Lễ Xin Trùm”. Từ 5 giờ sáng, bài vị, kiệu, lọng của năm vị thánh, đền Cao, đền Cả (nơi thờ hai vị), đền Bến Tràng, đền Bến Cả cùng cỗ chay: cơm trắng, hoa quả, bánh kẹo, bánh dày và chè đông (hai món không thể thiếu được trong lễ hội đền Cao) đã được các quan đám cùng dân làng rước về nơi hành lễ trong tiếng chiêng trống vang lừng. Cả năm đoàn rước từ năm hướng cùng một lúc tụ về nơi hành lễ. Các ngôi đền ở đây,ngày thường cũng như ngày lễ chỉ được thắp duy nhất một loại hương đen,loại hương mà dân làng ở đây cho rằng hương này là hương thanh khiết nhất.
Lệ xin trùm ở đền Cao ra đời từ khi lập đền, đến nay đã được duy trì hơn một ngàn năm và là một nghi lễ linh thiêng được thực hiện vô cùng khắt khe. Để đứng ra lo việc đền hằng tháng, hằng năm sẽ có một cụ trùm và năm vị quan đám đại diện cho bốn ngôi đền trên và một ngôi đình là quan Đông, quan Đoài, quan Nam, quan Bắc và quan Trung. Những người này là bậc cao niên trong làng, sống đức độ, con cháu hiếu thảo thuận hòa và đặc biệt gia đình không có tang trở. Mỗi tháng 6 vị trên phải trai giới ăn chay ngày 13 đến ngày 15 và ngày 29 đến ngày mồng 1 âm lịch khi tiến hành làm lễ. Các quan đám chỉ được nhận mũ áo và đảm nhiệm việc làng trong một năm từ mồng 2 Tết này cho đến mồng 2 Tết sau. Sau nhiệm kỳ họ sẽ được làng phong Lềnh và rất được trọng vọng. Riêng ông trùm là người lãnh đạo các quan đám sẽ đảm nhiệm vai trò của mình đến lúc gia đình có việc tang trở hoặc qua đời. Khi đó, lễ xin trùm mới lại được tổ chức và chỉ tiến hành vào ngày 15 tháng 3 hoặc 15 tháng 10 âm lịch.
Nghi lễ xin trùm được thực hiện một cách nghiêm trang và mang đậm yếu tố tâm linh. Người được phong trùm sẽ được chọn trong số các Lềnh. Trước hết, năm quan đám sẽ tiến hành dâng trầu nước, dâng cỗ lễ chay, thắp hương đen lên các ban. Trên bục hành lễ, quan đám đứng trước sẽ đọc tên khấn với nhà thánh xin phép cho vị đứng sau mình được làm trùm rồi quỳ xuống đội chiếc mâm đồng trên có 2 đồng tiền trinh để trên một thoi vàng phủ vải điều, làm lễ khất keo. Khi vị quan đám hơi cúi đầu để gieo lễ thì hai vị quan đám khác khiêng chiếc mâm đồng đệ phía trước đón hai đồng tiền rơi xuống. Lễ khất keo này chỉ được phép thực hiện duy nhất một lần. Nếu hai đồng tiền một sấp một ngửa thì lễ xin trùm đã được chấp thuận. Trường hợp ngược lại thì việc xin trùm phải gác lại cho đến dịp sau và các quan đám sẽ tạm thời đảm trách các công việc của trùm. Lễ xin trùm là một nghi thức tín ngưỡng được đông đảo nhân dân nơi đây quan tâm theo dõi. Theo quan niệm năm nào làm lễ xin trùm thành công thì năm đó và những năm tiếp theo trong vùng sẽ được no đủ.
Sau khi 5 anh chị em nhà họ Vương về trời,để tưởng nhớ công đức của họ nhân dân trong khu vực đã lập các dền thờ này.Triều đình cũng đã có nhiều sắc phong cho họ.
Hai bà chị cả được phong là “ mẫu nghi thiên hạ ”.
Ba người em trai đều được phong Đại vương.
b/ Theo những nguồn thông tin khác.
Khi đoàn khí công chúng tôi về đến khu vực có các đền thờ 5 anh em họ Vương, thì đã xác định chính xác thông tin, nơi đây có tên là “Kim Qui Cổ Loan” vì chúng tôi đã nhìn thấy rùa vàng xuất hiện. Cái tên “Kim Qui Cổ Loan” thì ngay đến mấy ông từ coi đền cũng không biết. Trong các tài liệu lịch sử thì nơi đây cũng không được xếp vào danh sách Bát Cổ. Nhưng sự thật là như thế, sự thật không phụ thuộc vào tư duy của con người mà nó luôn luôn là chính nó.
Nguyễn Quyết Tâm có thơ rằng:
Cổ Loan rực rỡ rùa vàng,
Cùng sinh,cùng tử rõ ràng cả năm.
Mẫu nghi,hai bóng trăng rằm,
Ba chàng đại tướng,ngự hàng Đại vương.
8 / Cao Lỗ Đại Vương.
a/ Theo Sử thuyết.
Cao Lỗ còn gọi là Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần hay ông Nỏ vì có tài bắn nỏ. Ông là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại Bắc Ninh.
Khi chết, ông trở thành thần bảo hộ cho vùng Việt Trì, Bạch Hạc, nay là phường Bạch Hạc, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nhà Trần đã sắc phong cho ông là “Quả nghị Cương chính Uy huệ Chính thần Đại vương”.
Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Cao Lỗ là một anh hùng sáng tạo văn hóa, là biểu tượng của trí tuệ, sức mạnh Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước.
Theo dân gian, khi bị thương nặng ở cổ, tướng quân Cao Lỗ đã buộc lại và thúc ngựa chạy tới Ái Mộ xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm nghỉ một lát rồi lại chạy tiếp về vùng Bình Than, Lục Đầu được ít lâu sau thì mất.
Dân chúng có lập đền thờ Cao Lỗ ở địa phương: tại Ái Mộ xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, tại xã Quảng An huyện Từ Liêm, Hà Nội, Bắc Ninh, Bình Than, Nghệ An, và tại TP HCM cũng có đền thờ Cao Lỗ ở khu vực Phú Thọ. Ông là người chế ra nỏ liên châu mà còn được gọi là nỏ thần. Nỏ thần bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.
Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sĩ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", góc Đông Bắc ngoài thành nội ngày nay còn ghi lại dấu vết này.
Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi ở ẩn.
Khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua chạy, quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát và ông đã tử trận.
b/ Theo những nguồn thông tin khác.
- Cao Lỗ Đại vương không chỉ là người chế ra nỏ thần mà Cao Lỗ đã tặng Nguyễn Quyết Tâm “cổ quang vòng” đó là PB dùng trong bài Thanh khí khai tâm để khai mở huyệt đạo rất tốt.
- Còn một kiếp nữa của Cao Lỗ Đại vương khi hóa thân tại VN, đó chính là Phù Đổng Thiên Vương. Điều này Nguyễn Quyết Tâm được các Cụ mách bảo thì mới biết chứ sử sách thì không biết mà ghi lại.
Nguyễn Quyết Tâm có thơ rằng :
Cổ Thành linh khí tụ Phao Sơn,
Về xin Cao Lỗ Đại vương nỏ thần.
Bỗng nghe ngựa gióng dừng chân,
Nhận ra Phù Đổng Thiên vương đã về.
*Thông tin ngoài lề.
Từ trước đến nay ở Đại Việt không có chính quyền Tâm linh, hay nói cách khác là không có vua và không có quân đội riêng.
Lúc đó Nhật Tần Vương có nhiệm vụ quản lý từ nửa miền Trung trở vào, Ông này được phong Tần Vương từ rất lâu rồi. Nửa phía Bắc do Trần Phát Đường quyền quản lý.
- Ngày 25/05/AD thì Ngọc Hoàng quyết định phong Nguyệt Tề Vương và giao cho ông này quản lý từ nửa miền Trung trở ra. Cả hai người Nhật Tần Vương và Nguyệt Tề Vương đều dưới quyền quản lý của Ngọc Hoàng nhưng vẫn có một Hội đồng trực tiếp giúp đỡ giám sát hai ông này đó là các vị Bát Cổ.
Như vậy “Người lãnh đạo Tâm linh Đại Việt” chính là các vị Bát Cổ cho đến ngày có người chính thức được phong Đông cung Thái Tử Hiền Vương và trở thành Hiền Vương Đại Việt.
/View more the latest threads:
- Chuyện BÂY GIỜ MỚI KỂ!
- Những kỷ niệm KHÔNG BAO GIỜ QUÊN
- Sự thật về VỤ ÁN LỆ CHI VIÊN!
- Sự thật về THÁNH VẬT SÔNG TÔ LỊCH !
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (Pc)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (P6)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (P5)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ! (p4)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ (P3)
- Kể chuyện HUYỀN THOẠI VỀ MẸ (P2)
Sức mạnh của người tu luyện là lòng tin và sự kiên trì
-
45 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới NhuMai
bần tăng (30-11-2019),Diệu Hồng (11-09-2020),Dungnph (04-12-2019),hagiangtptn (03-12-2019),Hạnh An (06-12-2019),Hieuhoc (15-12-2019),Hoa Cát Tường (08-09-2020),HoangSyHiep (30-11-2019),hoanlinh (03-12-2019),hoatran (30-11-2019),hoatuyet (07-12-2019),hocdao (02-12-2019),Hương Nhu (03-12-2019),lê chí công (09-12-2019),Lê Minh (30-11-2019),Lobbyvietnam (30-11-2019),manhcao277 (02-10-2021),manhtuongngo (30-11-2019),Mùa Xuân Đến (02-12-2019),Nghệ Linh (14-09-2020),PhongThuyGia (03-12-2019),Phương Nam (01-12-2019),Tamhuongthien (09-12-2019),tamminh (03-12-2019),tam_thuc (02-12-2019),Thanh Bình (03-12-2019),Thanh Quang (02-12-2019),thanhngoc (30-11-2019),thanhphong (08-12-2019),THANHTINH (04-12-2019),ThanhTrung90 (01-12-2019),thanhvinh (02-12-2019),Trần Kim Cương (07-09-2020),Trung Nghĩa (03-12-2019),trungthanh (07-12-2019),tuluyenthantam (09-12-2019),TuMinh (30-11-2019),turaunt (05-12-2019),Vidieu (11-06-2021),youme (02-12-2019),Đại Minh (10-09-2020),Đức Thành (30-11-2019),ĐINHQUANG HIỆP (30-11-2019)