Kết quả 1 đến 1 của 1
Hybrid View
-
24-08-2018, 00:28 #1
Mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sinh ra hai danh nhân lớn của lịch sử dân tộc Việt Nam
Kể cũng hiếm làng quê Việt Nam nào có đến hai ngôi đình thờ Thành hoàng làng là danh nhân của làng như xã Thanh Liệt: Đình Ngoại nơi thờ tướng Phạm Tu– Thượng thủy tổ họ Phạm Việt Nam
Mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sinh ra hai danh nhân lớn của lịch sử dân tộc Việt Nam đều đứng ở vị trí hàng đầu. Võ tướng Phạm Tu đã giúp vua Lý Nam Đế đánh quân xâm lược nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân, ngã xuống phòng tuyến sông Tô từ thế kỷ thứ VI. … Đã gần 1500 năm trôi qua, công lao đánh giặc giữ nước của tướng Phạm Tu mãi lưu truyền. Dân chúng làm nhiều câu thơ để ca ngợi, trong đó có câu: Tướng sử lục triều Lương địch quốc Thần bi nhất Phạm liệt danh hương Tạm dịch: Tướng triều đại năm thứ năm đánh giặc Lương Bia thần chốn làng quê sáng danh họ Phạm.
Đình Nội nơi thờ Chu Văn An -Quốc Tử Giám tư nghiệp Chu Văn An đời Trần. được đời sau tôn vinh là "Vạn thế sư biểu" (Người Thầy giáo mẫu mực của muôn đời). đã góp phần đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước - một người tài cao đức lớn yêu nước thương dân. Cuộc đời và sự nghiệp của Chu Văn An là tấm gương sáng để hậu thế noi theo. Trở thành vị "Thánh sư" cho nền giáo dục Nho học Việt Nam. Dân làng đã tôn ông làm Thành hoàng,
Tôi được biết nhiều điều hơn về cụ từ khi được biết đến Thầy , được Thầy đọc cho nghe bài thơ "Phi thuyền đang bay" ngay tại linh mộ cụ trong chuyến đi dã ngoại Côn Sơn vào dịp 30/04/ 2014 và trong chuyến đi đó Thầy NQT đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về Thầy Chu Văn An dạy Thầy có chuyện tưởng rất nhỏ nhưng vô cùng sâu sắc –“ luôn, phải-phải’’
"Lúc vào chùa thì đi bên phải, lúc ra cũng đi bên phải" câu nói của cụ Chu Văn An, hàm ý là dạy chúng tôi cách sống luôn luôn thuận theo lẽ phải
Còn khi vào chùa thắp hương phải dùng hai tay thắp ngay thẳng chính giữa bát hương. Việc tưởng chừng đơn giản nhưng không phải ai cũng biết và hiểu được
Ngoài ra Thầy Chu Văn An cũng chính là một Thần Y Dược -Khi khấn Thầy Chu Văn An một cách đầy đủ phải là ‘’Kính lạy, Thần y dược – Tôn sư Đại học sĩ – Tư nghiệp Quốc Tử Giám – Thủy cốc Tiên sinh – Bát cổ nhị Hoàng hoa’’
Danh tướng Phạm Tu với tên gọi đầy đủ theo bản thần tích xã Thanh Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) là: “Cảm ứng cư sĩ Phạm Tu, Thụy Đô Hồ Đại vương, thượng đẳng thần”. Bản thần tích này chép rằng, chính vua Lý Nam Đế đã sai người về làng Thanh Liệt phong Phạm Tu làm “Long Biên Hầu, Thụy Đô Hồ, Bản Cảnh Thành Hoàng” và ban cho xã Thanh Liệt quê hương ông là “Thang mộc ấp” (ấp tắm gội- đất phong tặng).
Phạm Tu sinh ngày 10 tháng 3 năm Bính Thìn (tức 19.04.476) tại Trang Quang Liệt, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Song thân của Ngài là Phạm Thiều và Lý Thị Trạch, vốn là những người đức độ có tiếng trong vùng.
Theo truyền thuyết, thấy họ có lòng thành, một ngày kia trời cho điềm lạ. Vào một đêm xuân đầu tháng giêng năm Ất Mão (475), bà Lý nằm mộng thấy thần Tây Hồ thay trời xuống ban cho quý tử. Ngày mười tháng ba năm Bính Thìn (476), bà Lý sinh con trai. Khi ấy, hương thơm ngạt ngào tỏa đầy nhà. Ông bà đặt tên con là Phạm Tu.
Từ nhỏ, Phạm Tu đã lộ rõ vẻ phương phi, tuấn tú, chăm đọc sách, học giỏi, đàn sáo hay. Đặc biệt, ông năng luyện võ, sức khỏe hơn người. Dân trong vùng thường gọi là “Đô Tu” với tấm lòng ngưỡng mộ. Người từng vận động nhân dân thực hiện khẩu hiệu “Cửu niên tam tích” (tích cốc- ngũ cốc phòng cơ, tích y- y phục phòng hàn, tích khí- vũ khí phòng giặc) để khi có thời cơ là nổi dậy đánh giặc cứu nước.
Cuối năm Tân Dậu (542), Lý Bôn- tức Lý Bí, lãnh đạo nhân dân khởi binh chống lại quân Lương. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí được nhân dân và hào kiệt khắp nơi nô nức ủng hộ. Lúc đó, Phạm Tu đã sang tuổi sáu mươi bảy. Người trực tiếp chiêu mộ trai tráng trong vùng, tổ chức luyện tập ngày đêm rồi tham gia quân khởi nghĩa. Ở đó, Phạm Tu cùng Tinh Thiều, Triệu Túc làm thành bộ tham mưu, giúp Lý Bí đánh đâu thắng đấy. Chính đạo quân do Lý Bí cùng Phạm Tu chỉ huy đã tiến vào đánh chiếm thành Long Biên, thủ phủ đô hộ của chính quyền nhà Lương thời đó. Thứ sử nhà Lương là Tiêu Tư, rất tham lam độc ác cũng phải khiếp sợ bỏ chạy về Quảng Châu. Trong vòng chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã quét sạch quân đô hộ ra khỏi bờ cõi. Nhà Lương tức tối sai Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đem quân sang đánh chiếm lại. Lý Bí cùng bộ tham mưu bàn bạc, chủ động đem quân đón đánh giặc ở đảo Hợp Phố. Quân Lương đến đó thì bị quân ta chặn đánh tiêu diệt gần hết. Sau thất bại này, Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng bị buộc phải tự tử vì thua trận.
[IMG]file:///C:\Users\Lenovo\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01 \clip_image001.jpg[/IMG] Nhà bia ghi công lão tướng Phạm Tu.
Cùng thời gian này, vua nước Lâm Ấp ở phía Nam lợi dụng nghĩa quân của Lý Bí phải chống trả quân Lương đã huy động lính cướp phá quận Nhật Nam (vùng Quảng Bình). Trước tình hình này, lão tướng Phạm Tu hăng hái đảm nhận vào Nam diệt giặc. Năm 543, lão tướng Phạm Tu chỉ huy quân sĩ đánh tan quân Lâm Ấp ngay ở quận Cửu Đức (vùng Hà Tĩnh ngày nay). Vua Lâm Ấp phải bỏ chạy về bên kia dãy hoành sơn. Thế là Phạm Tu được Lý Bí ban tặng bốn chữ: ”Cự Bắc, Bình Nam”. Chỉ từng ấy đủ nói lên tài năng của vị tướng già này.
Dẹp xong quân Lâm Ấp, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Ban văn do Tinh Thiều đứng đầu, ban võ do Phạm Tu đứng đầu. Với cương vị là tổng chỉ huy quân đội, Phạm Tu lo luyện tập quân sĩ, củng cố xây dựng hào lũy những nơi hiểm yếu trên đất liền, các cửa sông, cửa lạch… Cũng nhờ vậy mà khi quân Lương quay lại đánh chiếm vào năm 545, hệ thống phòng thủ các cửa sông vùng Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình đã giúp Phạm Tu cùng quân sĩ cầm cự trong 6 tháng liền. Sau đó Người mới chịu lui quân về giữ thành Long Biên – (khu vực chợ Gạo sau chợ Đồng Xuân ngày nay) để Lý Nam Đế và bộ hạ bảo tồn lực lượng, rút lui an toàn lên mạn trung du phía Bắc. Trong cuộc chiến không cân sức này, vị lão tướng đã sang tuổi 70 Phạm Tu đã anh dũng hy sinh. “Trong vòng chiến đấu xoay cuộc tang thương, đại vương phút chốc hiển linh thần hóa” ( nguyên văn trong thần phả thờ ở đình Thanh Liệt). Lúc đó là vào ngày 20 tháng 7 năm Ất Sửu.
Thanh Liệt xưa gọi là Quang Liệt, thế đất được coi là đất đế vương: ”Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Quang Liệt”. Năm 1690, nhà địa lý Tả Ao đã chọn thế đất đẹp để dựng ngôi đình thờ danh tướng Phạm Tu. Ngôi đình sừng sững tồn tại từ bấy đến nay cùng với 18 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến về Long Biên Hầu, Phạm Đô Hồ Đại Vương trong đó đời Nguyễn có tới 11 đạo sắc phong.
Nguồn:tổng hợp- sưu tầm internet.View more the latest threads:
- Cuộc chuyển giao quyền lực nhà nước phong...
- Truyền thuyết Đức Thánh Chèm
- Những lần Dân tộc ta đứng trước thử thách bị...
- Nét đặc trưng trong văn hóa của người Việt cổ
- Lịch sử thời đại Vua Hùng Bách Việt Văn Lang...
- Lòng yêu nước của vua Duy Tân
- Bát Cổ - Sơ đồ và lộ trình đi
- Bát Cổ - Hành trình tự khám phá Bát Cổ
- Tìm hiểu về nguồn cội Tộc Việt
- Lịch sử Dòng Tộc Họ Đỗ
Làm việc thiện cứu đời
Giữ lòng mình trong sạch
-
15 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới lê chí công
dangthanhha (31-08-2018),Diệu Hồng (13-10-2018),Hải Lý (26-04-2020),hoanlinh (31-08-2018),Hương Nhu (31-08-2018),Minh Toàn (30-08-2018),nganuoc (06-09-2018),Phương Nam (31-08-2018),tinhtamtuluyen (11-09-2018),tuluyenthantam (06-09-2018),TuMinh (01-09-2018),youme (31-08-2018),ĐINHQUANG HIỆP (31-08-2018)