Kết quả 1 đến 1 của 1
  1. #1
    Ngày tham gia
    Aug 2011
    Bài viết
    48
    Cảm ơn!
    686
    Thanked 582 Times in 52 Posts

    Mặc định Một số giai thoại thơ ca Việt Nam

    1. THƠ CÁI CHỔI

    Nhà thơ Lê Kim có kể rằng: Thuở nhỏ, khi đang học tiểu học, ông được nghe giảng và học thuộc lòng bài thơ “Cái chổi” của vua Lê Thánh Tông, trong đó có hai câu:
    “Một tay vùng vẫy, trời tung gió
    Bốn cõi tung hoành, đất sạch gai…”
    Thật đúng là khẩu khí đế vương! Viết về một vật nhỏ mọn tầm thường như “cái chổi”, thế mà vẫn lộ khí phách của bậc anh hùng “trị quốc, bình thiên hạ”.
    Cho mãi tới những năm 1966, 1967, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang ác liệt, nhóm thơ trào phúng của Lê Kim vẫn giữ nếp sinh hoạt đều đặn: cứ chủ nhật đầu tháng là kéo nhau tới họp ở nhà thơ Tú Mỡ, có cả nhà thơ Chế Lan Viên là trưởng tiểu ban thơ tới dự trong bầu không khí rất vui, và thân mật.
    Một buổi, nhân bàn về “hình tượng” và “chơi chữ”, nhà thơ Lê Kim đọc cho mọi người nghe bài thơ “Cái chổi” của Vua Lê Thánh Tông. Mọi người ca ngợi hết lời, riêng nhà thơ Chế Lan Viên cứ lặng lẽ nghe Lê Kim đọc thuộc lòng bài thơ “kèm theo bình luận”, rồi mới tủm tỉm nói:
    -Đúng là bài thơ của một ông vua… không bao giờ quét nhà!
    Chế Lan Viên giải thích:
    -Quét nhà thì phải “đằm” cái chổi xuống, tay “miết” đi, chứ lại “vùng vẫy tung gió” thì bụi đất bốc lên mù mịt à? Mà quét bằng chổi thì “sạch thế nào được gai”? Rõ thật là thiếu thực tế vì không lao động!
    Mọi người cười ồ.
    Quả thật, Chế Lan Viên, một nhà thơ đàn anh, vừa hóm hỉnh, uyên bác, lại thông thạo từ việc quét nhà, rửa bát đến… làm thơ.



    2. QUAN BẢNG ... HỌC CHỮ

    Sinh thời Lê Quý Đôn (1726 - 1784) nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy. Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ:

    "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn"

    (Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi).

    Lần thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ.

    Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn đọc: "chi". Ông Đôn không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao. Cụ lại đọc "chi". Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi:

    - Bẩm, "chi" nào ạ?

    Cụ thở than rằng:

    - Đến chữ "chi" cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?

    Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:

    "Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại
    Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ"

    (Nghĩa là: Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó.
    Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâủ).

    Thấy câu đối hay, lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc rằng:

    "Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa biết chữ "chi" anh ơi".

    Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu nán lại. Bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì.

    Giai thoại còn kể rằng, một lần Lê Quý Đôn đến cầu siêu ở ngôi chùa làng. Nhà sư thấy ông thì mừng rỡ mà rằng:

    - Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo. Chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đố thế này, xin quan chỉ cho:

    "Hạ bất khả hạ. Thượng bất khả thượng.
    Chỉ nghi tại hạ. Bất khả tại thượng".

    (Nghĩa là: Dưới không thể dưới. Trên không thể trên. Đúng nên ở dưới. Không thể ở trên).

    Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ "khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên.

    Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ để nhạo. Ông tự nhủ thì ra thiên hạ còn nhiều người giỏi hơn mình liền về nhà sai người cất tấm bảng. Từ đó ông bỏ tính kiêu ngạo, chăm chú nghiên cứu, học hành, giúp đời, trở thành một ông quan đa năng, một thiên tài khoa học lớn nhất Việt Nam thời phong kiến.



    3. BỊA THƠ TÀI HƠN VUA

    Tự Đức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm.

    Một hôm sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:

    - Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe!

    Rồi đọc luôn:

    Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ
    Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai

    Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa hán vừa nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ "khề khà", "lấm tấm" nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:

    - Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
    Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở hán dở nôm độc đáo của mình, không dè lại bị Quát dội một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta đã nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân ấy cho hả giận.

    Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường...

    Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

    Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
    Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
    Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
    Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.

    Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
    Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
    Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
    Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.

    Nghĩa là:

    Ngựa báu từ phía tây huếch hoác lại,
    Người huênh hoang nhờ cậy dìu về.
    Trong vườn oanh hót giọng khề khà.
    Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.

    Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp.
    Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
    Khù khờ thơ tứ đã quen tai,
    Khệnh khạng còn đem hỏi tú tài.

    Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.


    4. NGÀI CHƠI VỚI AI MÀ KHÔNG BIẾT MỘT ÁNG VĂN NÀO CỦA NƯỚC VIỆT ?

    Giáo sư Trần Văn Khê được mời dự buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản, tổ chức tại Paris (Pháp). Tham dự hầu hết là người Nhật và người Pháp, duy chỉ mình ông là người Việt. Diễn giả hôm đó là một cựu Thủy sư Đề đốc người Pháp đã mở đầu bài thuyết trình bằng câu:
    “Thưa quý vị, tôi là thủy sư đề đốc đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy một rừng văn học, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm với chỉ 31 âm tiết. Chỉ hai điều này thôi, các nước khác không dễ có được…’".
    .
    Lời phát biểu đã chạm đến lòng tự trọng dân tộc của Giáo sư Trần Văn Khê. Khi đến phần giao lưu, ông xin phép đuợc bày tỏ:
    “Thưa Ông Thủy sư Đề đốc, ông nói rằng ông đã ở Việt Nam cả 20 năm mà không thấy áng văn nào đáng kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi đã rất ngạc nhiên. Chẳng biết khi ngài qua Việt Nam, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của nước Việt? Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách… Phải chi ngài chơi với giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm 1300 sách báo về văn chương Việt Nam mà giáo sư đã in trên Tạp chí Viễn Đông Bác cổ của Pháp. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông ấy đã cất công sưu tập…Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng vạn áng văn kiệt tác…
    .
    Ngài nói trong thơ Tanka, chỉ cần một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Tôi chỉ là nhà nghiên cứu âm nhạc nhưng với kiến thức văn chương học thời trung học cũng đủ để trả lời ngài: Việt Nam có câu: “Đêm qua mận mới hỏi đào/Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”. Trai gái thường mượn hoa lá để bày tỏ tình cảm. Còn về số âm tiết, tôi nhớ sử Việt Nam chép rằng ông Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên (Trung Quốc) gặp lúc bà phi của vua Nguyên vừa từ trần. Nhà Nguyên muốn thử tài sứ giả nước Việt nên mời đọc điếu văn. Mở bài điếu văn ra chỉ có 4 chữ “nhất”. Mạc Đĩnh Chi không hốt hoảng mà ứng tác đọc liền:
    .
    “Thanh thiên nhất đóa vân
    Hồng lô nhất điểm tuyết
    Thượng uyển nhất chi hoa
    Dao trì nhất phiến nguyệt
    Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!”
    (Nghĩa là:
    Một đám mây giữa trời xanh
    Một bông tuyết trong lò lửa
    Một bông hoa giữa vườn thượng uyển
    Một vầng trăng trên mặt nước ao
    Than ôi! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!)
    - tất cả chỉ 29 âm chứ không cần đến 31 âm”.
    .
    Khi giáo sư Khê dịch và giải nghĩa những câu thơ này thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt.
    Ông thủy sư đề đốc đỏ mặt: “Tôi chỉ biết ông là một nhà âm nhạc nhưng khi nghe ông dẫn giải, tôi biết mình đã sai khi vô tình làm tổn thương giá trị văn chương của dân tộc Việt Nam, tôi xin thành thật xin lỗi ông và xin lỗi cả dân tộc Việt Nam".

    /
    Một lòng tu luyện không ngừng nghỉ
    Đền nợ non sông trả nghĩa Thầy

  2. 20 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Lam

    anbich (17-11-2016),bần tăng (11-11-2016),haixuyentb (14-11-2016),Hạnh An (12-11-2016),hoatuyet (11-11-2016),Hương Nhu (11-11-2016),Lê Minh (11-11-2016),Mùa Xuân Đến (17-11-2016),Minh Toàn (11-11-2016),Nam Thảo Chi (28-06-2017),Nganpham (11-11-2016),Ngô Minh Thành (11-11-2016),Phương Nam (11-11-2016),tam_thuc (11-11-2016),tanrau (11-11-2016),Thanh Quang (11-11-2016),thanhvinh (11-11-2016),Thutrang (14-11-2016),Tuyết Mai (11-11-2016)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •