Kết quả 1 đến 3 của 3
Threaded View
-
02-07-2016, 18:44 #2
Tiếp tục chủ đề: “Sự liên hệ 3 học thuyết Âm Dương, Ngũ hành, Thiên nhân hợp nhất và ứng dụng trong bài luyện khí công tâm linh của Thầy NQT”.
(Bài luyện liên hệ: “Vạn pháp Thanh khí khai tâm”).
Cách thức liên hệ gồm 2 phần:
PHẦN I: Nêu nội dung lý thuyết cơ bản của Học thuyết (tham khảo)
PHẦN II: Liên hệ sự ứng dụng học thuyết trong bài luyện Vạn pháp Thanh khí khai tâm.
II. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
2.1. Định nghĩa
Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm dương liên hệ cụ thể hơn trong việc quan sát quy nạp và sự liên quan của các sự vật trong thiên nhiên.
Trong y học, học thuyết ngũ hành được ứng dụng để quan sát quy nạp và nêu lên sự tương quan trong hoạt động sinh lý các tạng phủ, để chẩn đoán bệnh tật, để tìm tính năng và tác dụng thuốc, để tiến hành công tác bào chế thuốc men…
2.2. Nội dung của học thuyết ngũ hành
2.2.1 Ngũ hành là gì?
Người xưa thấy có 5 loại vật chính: kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất) và đem các hiện tượng trong thiên nhiên và trong cơ thể con người xếp theo 5 loại vật chất trên gọi là ngũ hành.
Ngũ hành còn có ý nghĩa nữa là sự vận động, chuyển hoá của các chất trong thiên nhiên và của tạng phủ trong cơ thể.
2.2.1 Sự quy nạp vào ngũ hành trong thiên nhiên và trong cơ thể con người
Hiện
tượngNgũ hành Hành Mộc Hoả Thổ Kim Thuỷ Vật chất Gỗ, cây Lửa Đất Kim loại Nước Máu sắc Xanh Đỏ Vàng Trắng Đen Vị Chua Đắng Ngọt Cay Mặn Mùa Xuân Hạ Cuối hạ Thu Đông Phương Đông Nam Trung ương Tây Bắc Tạng Can Tâm Tỳ Phế Thận Phủ Đởm Tiểu trưởng Vị Đại trường Bàng quang Ngũ thể Cân Mạch Thịt Da lông Xương, tuỷ Ngũ quan Mắt Lưỡi Miệng Mũi Tai Tình chí Giận Mừng Lo Buồn Sợ
2.2.3 Các Quy luật hoạt động của ngũ hành
a) Trong điều kiện bình thường hay sinh lý vật chất trong thiên nhiên và các loại hoạt động của cơ thể liên quan mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau để vận động không ngừng bằng cách tương sinh (hành/tạng nọ sinh hành/tạng kia) hoặc chế ước lẫn nhau để giữ được thế quân bình bằng cách tương khắc (hành/tạng này chế ước hành/tạng kia).
• Quy luật tương sinh:
- Ngũ hành tương sinh là chỉ mối quan hệ sinh ra nhau một cách thứ tự, thúc đẩy nhau phát triển của thuỷ, hoả, mộc, kim, thổ. Thứ tự của tương sinh là: mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc. Sự tương sinh này cứ lặp đi lặp lại không ngừng. Nếu đứng từ một hành mà nói thì sinh ra nó được gọi là “mẹ”, do nó sinh ra được gọi là “con”.
- Trong cơ thể con người: Can mộc sinh Tâm hoả; Tâm hoả sinh Tỳ thổ; Tỳ thổ sinh Phế kim; Phế kim sinh Thận thuỷ; Thận thuỷ sinh Can mộc.
• Quy luật tương khắc:
- Ngũ hành tương khắc là chỉ mối quan hệ lần lượt ức chế lẫn nhau của thuỷ, thổ, mộc, hoả, kim. Thứ tự của tương khắc là: mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thủy khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc. Quá trình tương khắc này cũng tuần hoàn không ngừng.
- Trong cơ thể con người: Can mộc khắc Tỳ thổ; Tỳ thổ khắc Thận thủy, Thận thuỷ khắc Tâm hoả; Tâm hoả khắc Phế kim; Phế kim khắc Can mộc.
b) Trong điều kiện bất thường hay bệnh lý, có hiện tượng hành nọ, tạng nọ khắc hành kia, tạng kia quá mạnh thì gọi là tương thừa hoặc hành nọ, tạng nọ không khắc được hành kia, tạng kia gọi là tương vũ.
Thí dụ về tương thừa: bình thường Can mộc khắc Tỳ thổ, nếu Can khắc Tỳ quá mạnh sẽ gây các hiện tượng đau dạ dày, ỉa chảy, khi chữa phải bình can (hạ hưng phấn của Can) và kiện tỳ (nâng cao sự hoạt động của Tỳ).
Thí dụ về tương vũ: bình thường Tỳ thổ khắc thận Thủy nếu Tỳ hư không khắc được thận thuỷ sẽ gây ứ nước như trong bệnh ỉa chảy kéo dài gây phù dinh dưỡng, khi chữa phải kiện tỳ (nâng cao sự hoạt động của tỳ) và lợi niệu (để làm mất phù thũng).
Quy luật tương sinh, tương khắc được biểu hiện bằng sơ đồ sau: (hình vẽ số 2)
Đính kèm 454
2.3. Ứng dụng trong y học
2.3.1. Về quan hệ sinh lý
Sự sắp xếp các tạng phủ theo ngũ hành và sự liên quan của chúng đến Ngũ vị, Ngũ sắc, Ngũ quan, thể chất và hoạt động về tính chí giúp cho việc học về các hiện tượng sinh lý các tạng phủ dễ dàng, dễ nhớ.
Thí dụ: Can có quan hệ biểu lý với Đởm, chủ về cân, khai khiếu ra mắt kích thích điều đạt, khi uất kết gây giận dữ…
2.3.2. Về quan hệ bệnh lý
Căn cứ vào ngũ hành tìm vị trí phát sinh một chứng bệnh của một tạng hay một phủ nào đó, để đề ra phương pháp chữa bệnh thích hợp.
Sự phát sinh ra một chứng bệnh ở một tạng phủ nào đó có thể xảy ra ở 5 vị trí khác nhau sau đây:
- Chính tà: do bản thân tạng phủ ấy có bệnh.
- Hư tà: do tạng trước nó gây bệnh cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ mẹ truyền sang con.
- Thực tà: do tạng sau nó gây bệnh cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ con truyền sang mẹ.
- Vi tà: do tạng khắc tạng đó không khắc được mà gây ra bệnh (tương thừa).
- Tặc tà: do tạng đó không khắc được tạng khác mà gây ra bệnh (tương vũ)
Thí dụ: mất ngủ là một chứng bệnh của Tâm có thể xảy ra ở 5 vị trí khác nhau và cách chữa cũng khác nhau:
- Chính tà: bản thân tạng tâm gây ra mất ngủ: như thiếu máu không nuôi dưỡng tâm thần. Khi chữa phải bổ huyết an thần.
- Hư tà: do tạng can gây bệnh cho tâm: như cao huyết áp gây mất ngủ. Khi chữa phải bình can (hạ huyết áp) an thần.
- Thực tà: do tạng tỳ bị hư, không nuôi dưỡng được tâm thần. Khi chữa phải kiện tỳ an thần.
- Vi tà: do thận hư không khắc được tâm hoả gây mất ngủ. Khi chữa phải bổ âm an thần.
- Tặc tà: do phế âm hư ảnh hưởng đến tâm huyết gây mất ngủ, khi chữa phải bổ phế âm an thần.
2.3.3. Về chẩn đoán học
Căn cứ vào những triệu chứng về ngũ sắc, ngũ vị, ngũ quan, thể chất để tìm bệnh thuộc các tạng phủ có liên quan.
a) Ngũ sắc: sắc vàng bệnh thuộc tỳ, sắc trắng bệnh thuộc phế, sắc xanh bệnh thuộc can, sắc đỏ thuộc bệnh tâm, sắc đen bệnh thuộc thận.
b) Ngũ chí: giận giữ, cáu gắt bệnh ở can; sợ hãi bệnh ở thận; cười nói huyên thuyên bệnh ở tâm; lo nghĩ bệnh ở tỳ; buồn rầu bệnh ở phế.
c) Ngũ khiếu và ngũ thế: bệnh ở cân: chân tay run co quắp thuộc bệnh can; bệnh ở mũi: viêm mũi dị ứng, chảy máu cam v.v… thuộc bệnh phế vị: bệnh ở mạch: mạch hư, nhỏ … thuộc bệnh tâm; bệnh ở xương tuỷ: chậm biết đi, chậm mọc răng v.v… thuộc bệnh thận.
2.3.4 Về điều trị học
a) Đề ra nguyên tắc chữa bệnh: hư thì bổ mẹ, thực thì tả con,
Thí dụ: bệnh phế khí hư, phế lao… phải kiện tỳ vì tỳ thổ sinh phế kim (hư thì bổ mẹ).
Bệnh cao huyết áp do can dương thịnh phải chữa vào tâm (an thần) vì can mộc sinh tâm hoả (thực thì tả con).
b) Châm cứu:
Trong châm cứu người ta tìm ra loại huyệt ngũ du. Tùy kinh âm, kinh dương mỗi loại huyệt tương ứng với một hành; trong một đường kinh quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương sinh, giữa hai kinh âm dương quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương khắc. Tên các huyệt ngũ du được đặt theo ý nghĩa của kinh khi đi trong đường kinh như dòng nước chảy:
- Huyệt hợp: nơi kinh khí đi vào
- Huyệt kinh: nơi kinh khí đi qua
- Huyệt du: nơi kinh khí dồn lại
- Huyệt huỳnh: nơi kinh khí chảy xiết
- Huyệt tĩnh: nơi kinh khí đi ra
Sơ đồ sắp xếp các huyệt ngũ du liên quan đến tương sinh, tương khắc của ngũ hành như sau:
Kinh Loại huyệt ngũ du Tỉnh Huỳnh Du Kinh Hợp Dương
↓Kim→
↓Thủy→
↓Mộc→
↓Hỏa→
↓Thổ
↓Âm Môc→ Hoả→ Thổ→ Kim→ Thuỷ
Khi sử dụng huyệt ngũ du để chữa bệnh, ngưòi ta cũng thực hiện theo nguyên tắc hư thi bổ mẹ, thực thì tả con (cách vận dụng du huyệt sẽ nói kỹ ở phần châm cứu).
2.3.5. Về thuốc
a) Người ta tìm kiếm và xét tác dụng của thuốc đối với bệnh tật các tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa vị, sắc với tạng phủ.
- Vị chua, mầu xanh vào Can
- Vị đắng, mầu đỏ vào Tâm
- Vị ngọt, mầu vàng vào Tỳ
- Vị cay, mầu trắng vào Phế
- Vị mặn, mầu đen vào Thận
b) Người ta còn vận dụng ngủ vị để bào chế làm vị thuốc thay đổi tính năng và tác dụng cho đi vào các tạng phủ theo yêu cầu chữa bệnh: sao với giấm cho vị thuốc vào can; sao với muối cho vị thuốc vào thận; sao với đường cho vị thuốc vào tỳ; sao với gừng cho vị thuốc vào phế; v.v…
-----
PHẦN II: Liên hệ sự ứng dụng học thuyết trong bài luyện Vạn pháp Thanh khí khai tâm.
Trong bài luyện, có đoạn Thầy hô: “Ngũ long thần xuất hiện” đã thể hiện rất rõ sự ứng dụng của Học thuyết ngũ hành trong việc thanh hóa (thanh lọc, chữa bệnh) cho toàn bộ tạng phủ, cụ thể là:
- “Bạch long đi vào phế”: Bạch Long (Rồng trắng) giúp thanh hóa Phế. (Vì Phế kim ứng với màu trắng).
- “Hoàng long đi vào tỳ”: Hoàng Long (Rồng vàng) giúp thanh hóa Tỳ. (Vì Tỳ Thổ ứng với màu vàng).
- “Xích long đi vào tâm”: Xích Long (Rồng Đỏ) giúp thanh hóa Tâm. (Vì Tâm hỏa ứng với màu đỏ).
- “Tuyền long đi vào thận”: Tuyền Long (Rồng Đen) giúp thanh hóa Thận (Vì Thận thủy ứng với màu đen).
- Thanh long đi vào can; Thanh long (Rồng Xanh) giúp thanh hóa Can (Vì Can Mộc ứng với màu xanh).
Thầy tiếp tục hô: “Ngũ long thanh hóa toàn bộ tạng phủ, đẩy bệnh khí, độc khí tạng phủ đẩy theo các đường khai khiếu đi ra khỏi cơ thể; đẩy thật hết ra khỏi cơ thể”.
Kết luận 2: Vận dụng Học thuyết ngũ hành, ứng với các hành là ngũ sắc, tương ứng với ngũ khiếu Thầy dùng đến “Ngũ long thần” để giúp việc thanh hóa toàn bộ tạng phủ thông qua các đường khai khiếu để đẩy bệnh khí, độc khí ra khỏi cơ thể một cách triệt để, toàn diện. Chính vì vậy, việc thanh lọc và chữa bệnh dựa trên cơ sở khoa học, Thầy áp dụng các pháp bảo và linh pháp tương ứng để mang lại hiểu quả tối ưu cho người bệnh.Trọn Đời, trọn Đạo, vị chúng sinh!
-
34 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Tieutrucxinh
bần tăng (03-07-2016),Diệu Hồng (11-07-2016),haixuyentb (03-07-2016),Hạnh An (28-02-2017),Hải Lý (11-03-2020),Hoa Cát Tường (11-08-2023),hoanlinh (27-01-2020),hoatran (03-07-2016),hoatuyet (04-07-2016),Hương Nhu (04-07-2016),lê chí công (03-07-2016),Lê Minh (03-07-2016),Mộc Lan (05-07-2016),Minh Toàn (10-07-2016),nganuoc (04-07-2016),PhongThuyGia (04-07-2016),Phương Nam (03-07-2016),Tamhuongthien (03-07-2016),tamminh (02-07-2016),tanrau (11-07-2016),Thanh Bình (18-05-2023),THANHTINH (03-12-2024),thanhvinh (04-07-2016),thànhtâm (10-07-2016),thiện tai (28-08-2021),Thutrang (04-07-2016),Thuy tuyen (23-02-2019),tinhtamtuluyen (02-07-2016),trungthanh (03-07-2016),TuMinh (05-07-2016),youme (10-07-2016),Đại Minh (04-07-2016)