"Hồi hướng công đức" - đúng hay không?
Kính thưa Thầy,
Kính thưa các bác, các cô/ chú cùng anh/ chị/ em trên diễn đàn.
Hôm nay con xin trở lại bài viết về Nghiệp này với chủ đề mới "Hồi hướng công đức" đúng hay không? Thực sự thì từ rất lâu rồi, khi đọc rất nhiều cuốn kinh, cuốn sách viết về đạo Phật,... con thường đọc được dòng này "Nguyện đem công đức này. Hướng về khắp tất cả. Đệ tử và chúng sanh. Đều trọn thành Phật đạo." Quả thật con chẳng nghĩ gì, cho tới khi con vô tình đọc được 1 bài viết trên 1 diễn đàn đại ý là "công đức tụng 1 bài kinh có bao nhiêu mà hồi hướng cho lắm người thế?" - khiến con giật mình!
Và hôm qua khi đọc 1 cuốn sách trên mạng, con cũng lại nhìn thấy phần hồi hướng đó (họ xin hồi hướng công đức ấn tống cuốn sách này cho tất cả chúng sinh). Con trở lại suy nghĩ về vấn đề Phúc và Nghiệp của việc này. Con xin đưa ra hai vấn đề để phân tích:
1. Việc tụng niệm một bài kinh như vậy, có công đức gì không?
2. Việc hồi hướng công đức như vậy, có thực hiện được không?
1. Về việc tụng niệm 1 bài kinh:
Theo suy nghĩ của con, thì việc tụng niệm này có công đức, căn cứ trên 4 yếu tố:
- Mình là chủ thể hành động (mình thực hiện tụng niệm)
- Mục đích: tốt, mình có được sự định tâm trong quá trình tụng niệm
- Những người chịu ảnh hưởng: bản thân mình
- Thời gian ảnh hưởng: ~30'
* Ở đây con chỉ xét tới trường hợp thông thường nhất: mình thực hiện tụng niệm ở nhà, không ảnh hưởng tới ai, trong quá trình tụng niệm mình đạt được sự định tâm, và việc tụng kinh này mới chỉ tác động tới mình trong quá trình tụng (sau khi tụng xong tâm mình chưa có gì thay đổi).
Con cũng không phân tích việc bài kinh đó là "bản chuẩn" hay "bản không chuẩn", vì việc đó cũng sẽ gây phức tạp cho việc phân tích này.
Qua phân tích 4 yếu tố này, chúng ta sẽ thấy:
- Thời gian ảnh hưởng ngắn
- Người chịu ảnh hưởng: chỉ có 1 mình mình
--> do đó Phúc đức mà mình tạo ra khi tụng niệm 1 bài kinh là có, nhưng rất .. rất ít!
(Nhưng cũng như phân tích, nếu sau khi tụng kinh xong, tâm mình dần dần có sự thay đổi thì thời gian ảnh hưởng sẽ được tính dài dần ra. Và khi tâm mình thay đổi thì sẽ có sự tương tác với những người xung quanh,... lúc đó sẽ khó tính toán hơn nên con chưa dám phân tích tới những trường hợp này.)
2. Về việc hồi hướng công đức:
Quả thật đây là 1 vấn đề khó, con cũng chưa suy nghĩ được thấu đáo. Con xin tạm liên hệ việc hồi hướng công đức này với việc "phát công". Để thực hiện được phát công, người thực hiện phát công phải có được các yếu tố sau:
- Năng lượng phải đủ lớn
- Có khả năng phát công
- Có đối tượng nhận công
- Khoảng cách từ người phát tới đối tượng nhận công.
Bởi vậy, khi liên hệ với việc "hồi hướng công đức", con cũng tạm phân tích rằng người muốn hồi hướng công đức phải có những yếu tố này:
- Công đức của việc làm đó phải đủ lớn
- Người này phải có khả năng chuyển Phước đức của mình tới những người khác
- Có đối tượng nhận công đức
- Khoảng cách từ người hồi hướng tới người nhận: theo con nghĩ "Khoảng cách" ở đây chính là "mối liên hệ thân thiết tới đâu". VD: bố mẹ - con cái/ Thầy - trò là khoảng cách rất ngắn. Rồi tới anh - chị - em trong cùng gia đình; cùng huyết thống rồi tới khác huyết thống,...
* Với ý thứ nhất: Công đức của việc làm này phải đủ lớn. Áp dụng ở đây là việc tụng kinh, thì có thể xem như việc tụng kinh chưa tạo được nhiều công đức để có thể hồi hướng.
* Với ý thứ 2: Người này phải có khả năng chuyển Phước đức của mình tới những người khác. Đây là 1 vấn đề "cực kỳ khó", bởi vì thông thường thì "Phước ai người đó hưởng", cho nên 1 người có khả năng chuyển Phước đức của mình tới 1 người khác nữa hoặc "gánh nghiệp" giúp 1 ai đó là điều rất hiếm khi xảy ra. Chỉ những bậc bề trên tu luyện rất cao mới có đủ khả năng "giảm họa", "tăng phúc" cho 1 ai đó nếu xem xét thấy người đó tu luyện đã có chút công đức rồi. Còn những người đang tu luyện (chưa thành đạo) thì từ trước tới nay con chỉ đọc được 1 câu chuyện (không biết là thật hay không) về việc 1 người con xin nguyện ăn chay niệm Phật suốt đời để tăng tuổi thọ cho mẹ mình và được chấp nhận.
* Với ý thứ 3: Đối tượng nhận công đức: là tất cả chúng sinh - phạm vi tác động là vô cùng lớn.
Căn cứ trên các phân tích trên, con "tạm kết luận" việc hồi hướng công đức khi tụng xong 1 bài kinh là "không xảy ra".
Nhân đây con cũng đã nghĩ tới việc ấn tống kinh sách thì sẽ tác động như thế nào. Nhưng con xét thấy việc ấn tống kinh sách có phạm vi tác động cũng khá rộng, và Phước đức của việc này cũng khá phức tạp (vì hiện nay Kinh sách bị "tam sao thất bản" cũng nhiều), nên con không phân tích.
Nhưng tại sao các cuốn sách, cuốn kinh, ... đều in phần hồi hướng công đức đó ở phía đầu/ hoặc phía cuối như vậy? Sau khi suy nghĩ về việc này, con thấy có 2 tác dụng về việc này ạ:
- Để nhấn mạnh với người tụng/ người in kinh sách rằng: phước đức từ việc này không nên giữ lại cho riêng mình. Vì trong suy nghĩ của mỗi một người khi tụng kinh, khi in kinh sách đều nghĩ rằng "việc này có rất nhiều phước đức". Cho nên khi họ hồi hướng các công đức này cho tất cả chúng sinh mà vẫn hoan hỉ, thì chính họ đã từ bỏ cái tâm "tham" rồi. Đây cũng sẽ là 1 thay đổi rất lớn ở nơi người này.
- Để nhớ ơn các bậc bề trên cũng như tất cả những người xung quanh đã giúp đỡ. Theo quan niệm của nhà Phật về việc "trùng trùng duyên khởi" thì 1 hành động xảy ra có vô vàn nguyên nhân tạo tác để cùng dẫn tới sự việc này. Do đó việc họ được tụng niệm kinh sách/ ấn tống kinh sách này cũng đã phải có vô vàn nguyên nhân/ sự giúp đỡ để có được. Và việc hồi hướng công đức này mục đích cũng chỉ để nhắc họ về việc phải nhớ tới công lao của những người có nhân duyên để tạo ra sự việc đó - bao gồm cả những người họ biết và những người họ không hề biết.
Con cũng không rõ việc phân tích của con có đúng không nữa. Nếu có chỗ nào không đúng, xin Thầy sửa giúp con, kẻo con lại "tạo Nghiệp" vì phân tích lung tung ạ. Con cảm ơn Thầy ạ.
Con cũng mong nhận được sự đóng góp ý kiến của tất cả mọi người trên diễn đàn - về tất cả các vấn đề trong cuộc sống mà mọi người đã gặp/ đã thấy/... để chúng ta hiểu được rõ hơn ạ.
"Không sợ thấp, không mong cao
Cái đến sẽ đến, tại sao mong cầu!"
_ trích thơ Thầy Huệ Tâm _