Kết quả 1 đến 9 của 9
Chủ đề: Tìm Hiểu Về " Bát Quái"
Threaded View
-
22-12-2023, 20:05 #9
Nhập môn
- Ngày tham gia
- Jan 2014
- Đang ở
- Hưng Yên
- Bài viết
- 129
- Cảm ơn!
- 4,390
- Thanked 2,136 Times in 132 Posts
Trần Khánh Dư (13 -03-1240 - 23-04-1340), hiệu là Nhân Huệ vương, là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần. Trần Khánh Dư quê ở Chí Linh, Hải Dương, cha là Thượng tướng Nhân Huệ hầu Trần Phó Duyệt, tương truyền mẹ là Trần Thái Anh. Khi còn thiếu thời, rất ít chuyện ghi chép về ông. Ông nổi bật với việc giữ chức Phó đô tướng quân trong khánh chiến chống Nguyên lần 2 và 3, tiêu diệt đoàn thuyền lương quân Nguyên ở Vân Đồn năm 1288, tham gia chinh phục Chiêm Thành năm 1312. Sau các chiến công ông được nhận làm thiên tử nghĩa Nam và được phong làm phiêu kỵ đại tướng quân.
Sau khi có được địa vị, Trần Khánh Dư lại vướng phải vụ án gian dâm với Thiên Thuỵ công chúa là vợ chưa cưới của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn vì là con trai Hưng Đạo vương Quốc Tuấn, lại có công đánh giặc nên rất có uy thế, nên Thượng hoàng mới gả Thiên Thụy công chúa cho.
Đến đây, sự việc phát giác, tuy nhà Trần không xa lạ với chuyện thân thích cưới gả, thế nhưng Trần Khánh Dư thân là Thiên tử nghĩa nam lại có hành vi tư thông, là một loại quan hệ đáng lên án của xã hội xưa. Trong phiên tòa xử tội ông,Vua Trần Thánh Tông sợ phật ý Hưng Đạo vương mà đã phạt tội đánh đến chết, nhưng Thánh Tông lại ngầm hạ lệnh cho lính đánh chúc đầu gông xuống, nhờ thế mà qua 100 roi Trần Khánh Dư vẫn sống. Theo luật thời đó, qua 100 roi mà không chết nghĩa là trời tha, nhờ vậy mà ông đã được miễn tội chết.
Sau đó, ông bị phế truất binh quyền, tịch thu gia sản phải trở về Chí Linh làm nghề bán than củi.
Năm 1283, ông được vua Trần Nhân Tông phục chức và được phong làm Phó đô tướng Quân trấn giữ Vân Đồn.
Lúc đó, thuyền vua đỗ ở bến Bình Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua chỉ và bảo quan thị thần: "Người kia chẳng phải là Nhân Huệ vương đó sao?".
Lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Đến cửa Đại Than thì kịp. Quân hiệu gọi: "Ông lái ơi, có lệnh vua triệu".
Khánh Dư trả lời: "Lão là người buôn bán, có việc gì mà phải triệu". Quân hiệu trở về tâu thực như thế. Vua bảo: "Đúng là Nhân Huệ đấy, ta biết người thường tất không dám nói thế".
Vua lại sai nội thị đi gọi. Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá đến gặp vua. Vua nói: "Nam nhi mà đến nỗi này thì thực là cùng cực rồi", bèn xuống chiếu tha tội cho ông. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.
Trần Khánh Dư có công lớn trong việc đánh tan đạo binh thuyền chở lương thực, khí giới của quân Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy vào tháng 12 năm 1287, góp phần làm xoay chuyển tình thế chiến tranh.
Tháng 5 năm 1312, ông theo Trần Anh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành. Trận này quân Đại Việt bắt được chúa Chiêm Thành là Chế Chí đem về.
Năm 1323, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư xin về trí sĩ, tại vùng ấp ông được phong, thuộc xã Dương Hòa, lộ Lý Nhân (Hà Nam).
Một lần, ông đi chơi đến Tam Điệp, Trường Yên (Ninh Bình), qua vùng đất thấy đồng cỏ bát ngát, sông nước hữu tình, ông bèn sai gia nhân đến khai khẩn, lập thành làng mới. Dần dần, người kéo đến làm ăn ngày càng đông. Ông đặt tên là trai An Trung. Sau đó, dân các vùng khác tiếp tục đến, lập thêm trại Đông Khê và trại Tịch Nhi, thuộc hai xã Yên Nhân và Yên Đông, huyện Ý Yên Nam ( Nam Định).
Ông ở lại những nơi mới khai phá này 10 năm. Sau đó, ông trở về ấp Dưỡng Hòa cũ và giao lại các trại mới lập cho hai gia tướng họ Bùi và họ Nguyễn coi sóc. Trong buổi đầu khai hoang lập ấp, ông đã bỏ tiền nhà ra giúp vốn cho dân, ông còn hướng dẫn dân trại Tịnh Nhi trồng cây cói và làm nghề dệt cói.
Năm 1340, Nhân Huệ vương mất, không lâu sau lễ mừng thọ 100 tuổi. Nhân dân trong vùng lập đền thờ ông ở trại An Trung, trên nền nhà xưa ông đã ở, để ghi tạc công đức của ông. Trong đền có bức đại tự: "Ẩm hà tư nguyên" (Uống nước nhớ nguồn) và đôi câu đối:
Nhân Huệ Vương tân sáng giang biên, thố địa ốc nhiều kim thượng tại
Bùi, Nguyễn tộc cựu mô kế chí, gia cư trù mật cổ do lưu.
Tạm dịch:
Nhân Huệ Vương mở mới bến sông, đồng ruộng tốt tươi nay vẫn đó
Họ Bùi Nguyễn theo nền nối chí, cửa nhà đông đúc trước còn đây.Lần sửa cuối bởi longtadinh, ngày 27-12-2023 lúc 20:57.
"Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"
-
11 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh
bần tăng (23-12-2023),Diệu Hồng (26-12-2023),HoangSyHiep (11-01-2024),Nghệ Linh (24-12-2023),NguyetQuangTu (23-12-2023),Phương Nam (25-12-2023),tamminh (25-12-2023),Thanh Quang (25-12-2023),THANHTINH (23-12-2023),Trung Nghĩa (24-12-2023),TuMinh (25-12-2023)