Kết quả 1 đến 9 của 9

Hybrid View

  1. #1
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định Tìm Hiểu Về " Bát Quái"

    Trước đây khi chưa theo tập KCTL bản thân tôi cũng là 1 người thích tìm hiểu về tử vi, tướng số. Thi thoảng tìm đọc sách về tử vi, tướng số, kinh dịch. Bát Quái là 2 từ ngữ quen thuộc và được nhắc rất nhiều trong các cuốn sách trên. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta cũng gặp rất nhiều những đồ vật liên quan đến "Bát Quái" điển hình nhất có lẽ là chiếc gương Bát Quái treo ở mỗi nhà. Nghe rất nhiều, cũng thấy rất nhiều nhưng quả thực bản thân tôi chưa bao giờ hiểu hết được ý nghĩa của 2 từ " Bát Quái". Hôm nay, trong buổi học ngày 20/03/16. Chúng tôi được Thầy NQT giải thích rõ hơn về ý nghĩa của 2 từ "Bát Quái" và biết được rằng Bát Quái của Việt Nam bao gồm những ai?
    - "Bát quái" là 8 vị thần chấn 8 hướng gồm: Đông, Tây, Nam, Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc.
    - Bát Quái Của Việt Nam gồm những ai?
    Bát Quái Việt Nam gồm 8 vị thần trấn giữ 8 hướng đó là:
    1. Tr Kh. D.
    2. Tr Nh. D.
    3. Tr Ng. H.
    4. Tr. K. T.
    5. Ph. N. L
    6. P.Đ. T.V.
    7. Ng.C.
    8. Đ.Th.T.

    Thế mới biết "sở học là vô cùng".
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  2. 61 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    dangthanhha (22-03-2016),DIỆU TÂM (20-03-2016),Diệu Hồng (23-03-2016),Dungnph (21-03-2016),Hùng Hiên (21-03-2016),Hạnh An (21-03-2016),hoanlinh (06-01-2020),Hoasentrang (21-03-2016),HoaThai (22-03-2016),hoatran (21-03-2016),hoatuyet (21-03-2016),hocdao (22-03-2016),honglien (21-03-2016),Hương Nhu (21-03-2016),kiencuong304 (03-01-2020),KTKTPQ (29-10-2018),lê chí công (24-03-2016),Lê Minh (21-03-2016),Liên Như (08-06-2016),LinhTâm (20-03-2016),manhcao277 (21-03-2016),manhtuongngo (20-03-2016),Mùa Xuân Đến (30-04-2022),Minh Toàn (21-03-2016),Nganpham (21-03-2016),Ngô Minh Thành (21-03-2016),Ngộ Không (28-04-2022),nguyendinhtuan (21-03-2016),NguyetQuangTu (21-03-2016),PhongThuyGia (21-03-2016),Phucthinh (30-03-2016),phuongngoc (03-11-2017),Phương Nam (21-03-2016),Tamhuongthien (21-03-2016),tamminh (21-03-2016),tam_thuc (21-03-2016),tanrau (05-08-2016),Thanh Bình (22-03-2016),Thanh Quang (21-03-2016),Thanhduong (21-03-2016),thanhphong (21-03-2016),THANHTINH (21-03-2016),theoThầy (21-03-2016),Thiền sư KM (23-03-2016),Thutrang (21-03-2016),tiendung23680 (02-11-2017),tinhtamtuluyen (24-11-2017),Trần Kim Cương (03-11-2017),tuluyenthantam (21-03-2016),TuMinh (21-03-2016),Vidieu (21-03-2016),xuangiang14 (21-03-2016),youme (21-03-2016),Đại Minh (21-03-2016)

  3. #2
    Ngày tham gia
    Nov 2012
    Đang ở
    Hà Tĩnh
    Bài viết
    115
    Cảm ơn!
    5,930
    Thanked 2,771 Times in 112 Posts

    Post

    Bái Quái và Bát Quái Trận

    Đọc qua nhiều bài nhật ký của Thầy NQT chúng ta được biết đến những vị Thần quyền năng rất cao giúp Thầy làm việc trong tâm linh, trong đó có Bát Quái. Chúng ta cũng đã từng tập rất nhiều lần các bài thiền của Thầy NQT, trong số đó có những bài hộ tạng như hộ não, hộ tâm, hộ can, hộ tỳ, v.v...đều có nhắc đến "Bát quái trận đồ". Cũng như trong nhiều bài luyện khác chúng ta có nghe nhắc đến "Bát Quái Trận".
    Ví dụ như trong Bài HỘ TÂM TOÀN NĂNG TRẬN PHÁP, chúng ta nghe Thầy hô:
    Bát quái luyện Tâm đồ nhập trận….
    Bát quái luyện Tâm đồ nhập trận…
    Bát quái luyện Tâm đồ nhập trận….


    Vậy ý nghĩa của câu lệnh trên như thế nào, Bát Quái là gì? Chúng ta tham khảo bài viết của chị FirePhoenix "Tìm hiểu về BÀI LUYỆN TIÊU VẠN BỆNH" để biết thêm:
    Trích dẫn Gửi bởi FirePhoenix
    Thầy hô "Hộ tâm toàn năng trận pháp xuất hiện!" Chu trình chữa trị, hoàn thiện và nâng cao năng lượng cho tạng Tâm của người ngồi thiền bắt đầu chính thức từ giai đoạn này. Thầy dùng "Bát quái luyện Tâm đồ" như một phác đồ tổng hợp cho người tập. Bái quái trận là một trong những loại trận pháp mà có rất nhiều Thầy dậy khí công hoặc các môn luyện tập khác sử dụng. Bát quái là từ dùng để chỉ 8 vị Thần quản lý 8 phương Bắc, Nam, Đông, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam. Bát quái có đặc điểm là: Khi nhập làm một thì gọi là Bát Chính Thần, khi tách riên ra thì gọi là Bắc quái, Nam quái, Đông quái,Tây quái, Đông Bắc quái, Tây Bắc quái, Đông Nam quái, Tây Nam quái. Khái niệm Bát Quái xuất phát từ khái niệm: “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lượng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng”…

    Theo Thầy cho biết thì: Thái Thượng Lão Quân dạy Thầy “Bát Quái Trận Đồ”, có hôm Cụ đã gợi ý: Nếu Bát Quái Đồ dùng để luyện Tâm thì gọi là “Bát Quái Luyện Tâm Đồ”, thuốc Linh đan được luyện trong lò Bát Quái mà chuyên dùng để chữa bệnh về Tâm thì gọi là “Hộ Tâm toàn năng pháp Linh đan”. Lời dẫn cụ thể của bài luyện thì Thầy căn cứ vào kinh nghiệm chữa bệnh thực tế rồi viết ra. Sau đó Thầy tự suy luận rằng, nếu luyện được Tâm thì cũng luyện được các tạng phủ, bộ phận khác trên cơ thể. Và Thầy hoàn thiện tiếp các bát quái đồ cho Não, Phế, Gan, Thận, Cốt, Tì. "Hộ tâm toàn năng pháp linh đan" là một viên linh đan, một viên linh dược được luyện trong lò bát quái của Thầy. "Toàn năng" ở đây có nghĩa là đầy đủ mọi công dụng. "Hộ tâm toàn năng pháp linh đan" là viên thuốc có đầy đủ các công dụng chữa mọi loại bệnh cho tạng Tâm trong cơ thể con người, bao gồm cả bệnh huyết áp.
    Hay trận khí “HUỆ TÂM – NGŨ HÀNH - BÁT QUÁI ĐẠI LÂM THẠCH DƯỢC THẢO TIÊU VẠN BỆNH TRẬN KHÍ” cũng được Thầy sử dụng linh hoạt Bái Quái Trận, Ngũ Hành kết hợp với các cây thuốc quý để chữa bệnh. Gần đây nhất tôi được nghe kể về Thầy đã lập trận pháp kết hợp Huệ Tâm Đăng, Bát Quái Trận để lập trận quét khí xấu cho cả một vùng rộng lớn, v.v...

    Bái quái trận là một trong những loại trận pháp mà có rất nhiều thầy dậy khí công hoặc các môn luyện tập khác sử dụng. Song có một điều nhiều người không hiểu đó là: Ai có thể mời, gọi Bát quái ra làm việc ? Phải là người có chức vụ, có quyền năng cao hơn Bát quái, có nhiệm vụ cần Bát quái hỗ trợ thì mới mời được các vị Thần ấy về giúp. Những ai muốn lập trận sử dụng Bát Quái Trận thì cần phải luyện tốt trận ấy, phải có kiến thức lớn về quy luật “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lượng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng” thì mới làm đúng và phát huy uy lực của trận khí.
    /

  4. 58 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới manhcao277

    bần tăng (25-03-2023),dangthanhha (22-03-2016),Diệu Hồng (23-03-2016),Dungnph (21-03-2016),Hùng Hiên (21-03-2016),Hạnh An (21-03-2016),hoanlinh (06-01-2020),Hoasentrang (21-03-2016),hoatran (21-03-2016),hocdao (22-03-2016),Hương Nhu (21-03-2016),kiencuong304 (03-01-2020),lê chí công (21-10-2023),Lê Minh (03-01-2020),Liên Như (08-06-2016),LinhTâm (14-11-2017),longtadinh (21-03-2016),manhtuongngo (21-03-2016),Mùa Xuân Đến (30-04-2022),Minh Toàn (21-03-2016),Nganpham (21-03-2016),nganuoc (02-01-2020),Ngô Minh Thành (21-03-2016),Nghệ Linh (21-03-2016),nguyendinhtuan (21-03-2016),NguyetQuangTu (21-03-2016),PhongThuyGia (21-03-2016),Phucthinh (30-03-2016),phuongpham (29-04-2022),Phương Nam (21-03-2016),Tamhuongthien (21-03-2016),tamminh (11-04-2016),tam_thuc (21-03-2016),tanrau (05-08-2016),Thanh Bình (22-03-2016),Thanhduong (21-03-2016),thanhphong (21-03-2016),THANHTINH (21-03-2016),thanhvinh (06-11-2017),theoThầy (21-03-2016),Thiền sư KM (23-03-2016),Thutrang (22-03-2016),tiendung23680 (23-03-2016),tinhtamtuluyen (21-03-2016),Trần Kim Cương (03-01-2020),trungthanh (21-03-2016),tuluyenthantam (21-03-2016),TuMinh (21-03-2016),turaunt (22-03-2016),Vidieu (12-09-2023),xuangiang14 (21-03-2016),youme (21-03-2016),Đại Minh (21-03-2016),ĐINHQUANG HIỆP (21-03-2016)

  5. #3
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định

    PHẠM NGŨ LÃO (1255 - 1320)

    Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) là danh tướng nhà trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288 . Đương thời, danh tiếng của ông chỉ xếp sau Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - người được xem như vị tướng vĩ đại nhất lịch sử quân sự Việt Nam.
    Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay thuộc xã Phù Ủng huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam). Ngay từ thưở nhỏ, cậu bé Ngũ Lão đã tỏ ra khác thường, tính tình khẳng khái. Khi ở làng có người đỗ Tiến sĩ (Bùi Công Tiến) tổ chức ăn mừng, cả làng kéo đến, riêng Ngũ Lão thì không. Người mẹ hỏi con tại sao không đến, Ngũ Lão thưa với mẹ: chí làm trai phải lập công danh rạng rỡ non sông mà con chưa lập được bằng người, đi mừng người ta nhục lắm. Cũng thời gian ấy, Hưng Đạo Vương có việc quân qua vùng đất Phù Ủng. Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt ngoài đường mải nghĩ về cuốn sách Binh thư nên không biết quan quân trảy đến. Một người lính dẹp đường quát mãi, chàng trai đan sọt vẫn cứ ngồi yên. Người lính bèn dùng giáo xuyên vào đùi kẻ cản đường, vậy mà người đan sọt cứ như không. Qua đối đáp trôi chảy của chàng trai nông dân, Tướng công thầm hiểu đây sẽ là một vị lương tướng của triều đình. Ông sai lính lấy thuốc trị vết thương rồi cho mời về triều.
    Sau khi về kinh đô, Hưng Đạo Vương tiến cử Phạm Ngũ Lão lên Triều đình với chức cai quản quân Cấm vệ. Vệ sĩ biết ông là nông dân thì không phục bèn xin tâu được cùng ông thử sức. Phạm Ngũ Lão bằng lòng, nhưng trước khi vào đấu sức, ông xin về quê 3 tháng. Về quê, ngày nào Phạm Ngũ Lão cũng ra cái gò lớn ngoài đồng, đứng cách một tầm mà nhảy lên, nhảy mãi cho đến khi cái gò bị sạt mất một nửa. Hết hạn, ông trở về cấm thành, cùng các vệ sĩ so tài. Thấy ông tiến thoái như bay, tay đấm, chân đá thoăn thoắt, xem ra sức có thể địch nổi cả vài chục người. Từ đó, quân vệ sĩ bái phục ông.
    Trong hai cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên (1285 - 1288) Phạm Ngũ Lão lập được nhiều chiến công. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai ông cùng với Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền khổng lồ của giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, Phạm Ngũ Lão được lệnh mang 3 vạn quân phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường địch rút chạy lên biên giới phía bắc và diệt được hai phó tướng địch là Lý Quán và Lý Hằng.
    Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường rút lui của giặc trên sông Bạch Đằng, trong trận này quân nhà Trần bắt sống các tướng nhà Nguyên là Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi. Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.
    Năm 1290, vua Trần Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại tướng quân. Năm Giáp Ngọ (1294) nhờ lập công khi đi đánh ở Ai Lao, ông được ban Kim Phù (tức binh phù làm bằng vàng). Năm Đinh Dậu (1297) cũng nhờ lập công khi đi đánh trận ở Ai Lao, ông được ban Vân Phù (tức binh phù có khắc chạm hình mây). Năm Tân Sửu (1301), ông được phong làm Thân Vệ Đại tướng Quân và được ban Quy Phù (tức binh phù có chạm hình con rùa). Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Một người con gái của Phạm Ngũ Lão hiệu là Tĩnh Huệ là thứ phi của vua Anh Tông.

    Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành vào năm 1312, buộc vua Chiêm là Chế Phí phải xin hàng và 1318 vua Chế Năng phải bỏ chạy sang Java( một hòn đảo ở Indonesia).

    Không chỉ có tài về quân sự, mà ông còn để lại nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Tiếc là hiện nay tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài là Thuật Hoài (Tỏ lòng) và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương).

    Ngày 1 tháng 11 năm 1320, Phạm Ngũ Lão mất, hưởng thọ 66 tuổi. Vua Trần Minh Tông nghỉ chầu 5 ngày, đây là một đặc ân của nhà vua đối với ông.

    Nhân dân xã Phù Ủng dựng đền thờ ngay trên nền nhà cũ của ông. Ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  6. 18 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    dangthanhha (03-11-2017),hoanlinh (06-01-2020),Hương Nhu (03-11-2017),Lê Minh (03-01-2020),manhtuongngo (04-01-2020),nganuoc (06-11-2017),NguyetQuangTu (29-06-2023),phuongpham (29-04-2022),Phương Nam (04-11-2017),Tamhuongthien (02-11-2017),tanrau (03-01-2020),THANHTINH (07-11-2017),theoThầy (02-11-2017),tiendung23680 (02-11-2017),tinhtamtuluyen (24-11-2017),Trần Kim Cương (03-11-2017),trungthanh (02-01-2020),TuMinh (02-01-2020)

  7. #4
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định


    TRẦN NHẬT DUẬT
    (1255 - 1330)


    Trần Nhật Duật được biết qua tước hiệu Chiêu Văn Vương hay Chiêu Văn Đại Vương, là một hoàng tử nhà Trần, con trai thứ sáu của Trần Thái Tông và là một danh tướng nổi tiếng của vương triều nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai và thứ ba, đặc biệt là chiến thắng Hàm Tử, công lao hiển hách không thua kém Trần Quốc Tuấn hay Trần Quang Khải.

    Ông không những được kính trọng bởi tài năng quân sự mà còn bằng vào khả năng am hiểu sâu sắc các thứ tiếng nước ngoài, phong tục, tập tục các vùng đất không riêng ở Đại Việt mà còn hiểu biết sâu rộng về những thứ tiếng của các nước láng giếng như tiếng Tống, Ai Lao, Chiêm Thành và tiếng nói của các dân tộc thiểu số. Trong phủ của ông luôn luôn có các gia thần, gia tướng không riêng gì người trong nước mà có rất nhiều người nước ngoài, những tướng lĩnh người Tống khi mất nước cũng được ông thu nhận và giúp họ lập nghiệp. Trần Nhật Duật còn là một con người khoan dung độ lượng.


    Ông sinh ra và lớn lên tại kinh thành Thăng Long, trải qua trên năm mười năm làm trọng thần dưới triều đại năm vị Hoàng đế liên tiếp. Trần Nhật Duật được phong tước Chiêu Văn vương năm 12 tuổi, một trong những tước vương trẻ nhất của vương triều Trần.

    Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật sinh vào tháng tư năm Ất Mão (1255), là con trai thứ sáu của Trần Thái Tông, người đời ấy thường gọi là Ông Hoàng Sáu hoặc Hoàng Lục Tử. Thân mẫu của ông đến nay vẫn chưa xác định rõ. Tuy nhiên, theo bản thần tích ở đền thôn Miễu, xã Mạt Lăng, huyện Tây Chân (nay thuộc Nam Trực, Nam Định), có nhắc đến những chi tiết thú vị về người mẹ của ông như sau:

    "Vào năm Kỷ Hợi ( 1239), một lần Trần Thái Tông đi tuần du qua phủ Thiên Trường, xa giá dừng lại nghỉ ở làng Miễu. Nghe tin vua đến, dân chúng đem lễ vật tới dâng và để tỏ lòng sùng kính, Trần Thái Tông mới hỏi chuyện nông tang, và điều ngạc nhiên là người trả lời không phải là các bô lão, chức dịch trong vùng mà là một cô gái trẻ được cử ra hầu đáp với hoàng đế. Cô gái đó tên là Vũ Thị Vượng, còn gọi là Vượng Nương, hình dung yểu điệu, nhan sắc tuyệt trần, giỏi nghề canh cửi, chăm việc ruộng đồng, nổi tiếng cả vùng vừa đẹp người lại đẹp nết. Thấy cô gái trả ứng đối thông minh mẫn tiệp, hiểu biết sâu rộng, nhất chuyện nghề nông nên nhà vua thấy rất quý mến. Ngay sau ngày hôm đó, Trần Thái Tông cho làm lễ, đón Vũ Thị Vượng về cung, lập Cung phi thứ năm, hiệu là Vũ phi"
    Có nhiều truyền thuyết kể về sự ra đời kì lạ của Trần Nhật Duật, chẳng hạn truyền thuyết cũng ghi tại thần phả làng Miễu: ..."Lễ cầu tự kéo dài 21 ngày, một đêm Vũ phi nằm mộng thấy ngôi sao lớn từ trên không rơi xuống giường nằm của mình, từ đấy bà có mang, đến giờ Ngọ ngày mồng 10 Tháng 04 năm Ất Mão (1255) sinh một hoàng tử, dung mạo khác thường, được đặt tên là Nhật Duật".

    Theo sử sách, từ nhỏ ông đã nổi tiếng là hiếu học và sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người. Truyền rằng khi mới sinh, trên tay Trần Nhật Duật có bốn chữ "Chiêu Văn đồng tử". Sau Trần Thái Tông lấy đó mà đặt phong hiệu cho ông là Chiêu Văn có nghĩa là đón, gọi cái đẹp.

    Trần Nhật Duật có trên năm mươi năm làm tướng và giữ những trọng trách của triều đình liên tiếp năm triều vua: Trần Thánh Tông,Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, lập nhiều công lao to lớn. Bản thân ông là một tấm gương sáng về tài trị quốc và đánh giặc, một nền tảng quan trọng về nghệ thuật quân sự Việt Nam, một người hiền có nhiều công trạng trong gây dựng, phát triển các sắc màu văn hóa Đại Việt về văn học, âm nhạc, ngôn ngữ. Nhiều thành tựu về âm nhạc, múa hát dân tộc đến hôm nay vẫn còn mang dấu ấn sáng tác của ông. Năm 1302, ông được phong Quốc công Thái úy. Năm 1324, được phong Tá thánh Thái sư. Ông mất năm 1330, thọ 76 tuổi. Sau khi ông qua đời, nhiều nơi đã lập đền thờ để tưởng nhớ ông. Ngày nay ở TPHCM và Hà Nội đều có những con đường và phố mang tên ông.

    - Đối với KCTL chúng tôi còn được biết thêm Cụ là một trong những "bát quái" của Việt Nam.
    Lần sửa cuối bởi longtadinh, ngày 21-11-2017 lúc 18:24.
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  8. 26 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    bần tăng (02-11-2017),dangthanhha (03-11-2017),hoanlinh (06-01-2020),Hoasentrang (30-04-2022),Hương Nhu (03-11-2017),kiencuong304 (03-01-2020),Lê Minh (03-01-2020),manhtuongngo (04-01-2020),Minh Toàn (02-11-2017),nganuoc (02-01-2020),Ngô Minh Thành (07-11-2017),NguyetQuangTu (29-06-2023),phuongpham (29-04-2022),Phương Nam (04-11-2017),Tamhuongthien (02-11-2017),tanrau (03-01-2020),Thanh Quang (13-11-2017),thanhphong (06-11-2017),thanhvinh (06-11-2017),theoThầy (02-11-2017),Trần Kim Cương (03-01-2020),trungthanh (02-11-2017),TuMinh (02-01-2020)

  9. #5
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định

    TRẦN KHÁT TRÂN (1370-1399)

    Thượng tướng Trần Khát Chân sinh năm Canh Tuất (1370) con bà Nguyễn Thị Điểm ở vùng Đông Sơn, Thanh Hoá. Ông vốn là hậu duệ của Lê Hoàn (tức vua Lê Đại Hành) nhà truyền ba đời Thanh tướng. Năm lên 21 tuổi Trần Khát Chân đã làm quan đến chức tam công trận nội hậu. Giúp vua Trần Nghệ Tông và Thuận Tông trong việc trị nước an dân. Khi còn nhỏ là dòng họ Lê Tới thời vua Trần Khải Tông, ông được mang quốc tính họ Trần (Lê Phò Trần). Trần Bình Trọng và được phong thái ấp ở làng Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (tức huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá ngày nay). Khi Trần Khát Chân thành niên thì trần triều không còn lớn mạnh như những năm kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Vua quan bắt đầu sống sa đoạ, trong nước giặc loạn nổi khắp nơi, phía bắc giặc Minh dòm ngó, phía Nam quân Chim thành do Chế Bồng Nga đem quân vượt biên giới đánh Đại Việt liên tiếp.
    Năm Quang Thái thứ 2 (1389) vua Chế Bồng Nga (Chiêm Thành) lại đem quân xâm lược Đại Việt. Hồ Quý Ly đi cự chiến song bị thua trận phải chạy rút về Đông Đô. Tức giận trước sự xâm lược của ngoại bang.
    Trần Khát Chân cúi đầu xin Hoàng Thượng Nghệ Tông đem quân ra chặn giặc. Người nói rằng nếu không đuổi được giặc ngoại xâm thì không có ngày về. Vua Nghệ Tông cảm động đến rơi nước mắt.
    Tháng giêng năm Canh Ngọ (1390) Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa trên sông Hải Triều (Hưng Yên). Trần Khát Chân cùng cận thần giả danh làm ngư dân chài lưới chinh sát biết rõ nới đậu thuyền của Chế Bồng Nga. Ông đã dùng hoả công bắn chúng thuyền giặc tiêu diệt tại chỗ Chế Bồng Nga. Vua chết, quân Chiêm Thành tan tác rút chạy. Thắng trận Trần Khát Chân đem thủ cấp của Chế Bồ Nga về tâu với Hoàng Thượng tại bến Bình Than. Do có công lớn diệt giặc Chiêm Thành Trần Khát Chân được phong cấp Thượng tướng quân và cấp đất đai lập ấp tại Hoàng Mai phía nam thành Thăng Long Hà Nội lúc bấy giờ ngài tròn 24 tuổi. Trần triều tiếp tục suy thoái, Năm 1394, thượng hoàng Nghệ Tông mất. Năm 1398, Hồ Quý Ly bắt vua Thuận Tông nhường ngôi cho con trai là Thái tử An mới có 3 tuổi, rồi sau đó sai người giết chết Thuận Tông (1399). Kể từ năm 1397, Hồ Quý Ly bắt đầu cho xây dựng kinh đô mới ở Thanh Hóa (ngày nay vẫn còn thường gọi là thành Tây Đô, hoặc thành nhà Hồ). Thành có 4 cửa mở ra bốn hướng, và cửa Nam là chính môn. Cửa này có con đường lát đá dẫn thẳng tới ngọn núi Đốn Sơn (tức núi Đún, ở xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Con đường này dài tới ba nghìn thước và theo như nhân dân địa phương kể thì do Trần Khát Chân đắp nên.
    Mùa Hạ (1399) Hồ Quý Ly lập đàn tế tại Nam Giao, dọc bái chân đồi phía tây nam Đốn Sơn. Đây là hội tế cầu trời đất đầu tiên trong lịch sử thời nhà Hồ. Đại lễ được trống dong cờ mở, trướng dương cùng với gươm giáo rợp trời. Nhân cơ hội này các quan tướng trung thành với Trần triều do thượng tướng Trần Khát Chân cầm đầu định tạo phản lật đổ Hồ Quý Ly song sự việc không thành. Hồ Quý Lý ra lệnh bắt tướng Trần Khát Chân. Trần Nhật Đôn, Phạm Ông Thiệu, .. cùng các quan thân thích của Trần triều bao gồm 370 người bị đem ra hành quyết dưới chân núi Đốn Sơn đó cũng là hội tế đẫm máu trong lịch sử hồi bấy giờ. Ông bị hành khuyết vào ngày 24 tháng 4 năm Kỹ Mão (1399) nhân dân trong vùng vô cùng thương tiếc và khâm phục tấm lòng của một bề tôi trung nghĩa nên đã lập đền thờ ông trên núi Đốn Sơn vào đầu thế kỷ thứ XVI và tôn ông là thành hoàng của ba tổng: Tổng Bỉnh, Tổng Cao, Tổng Hồ (Quang Biểu, Cao Mật, Hồ Nam) ngày nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá. Tương truyền ông có công chỉ đạo xây thành đắp luỹ thành Tây Đô (thành Tây Giai – Thành Nhà Hồ).

    Trần Khát Chân là một nhà quân sự lớn, một vị tướng tài giỏi của nhân dân ta ở thế kỷ XIV. Ông là vị tướng rất trung thành với triều Trần. Học viện nghiên cứu khoa học chiến lược nghiên cứu quân sự Việt Nam đã đánh giá “Ông là người Việt Nam đầu tiên sử dụng sức mạnh của pháo binh để đè lên sức mạnh của quân thù trong các cuộc giao tranh. Kháng chiến chống ngoại xâm, bảo về Tổ quốc”. Trong tâm linh chúng ta còn biết đến Trần Khát Trân còn là một trong tám vị bát quái của Việt Nam.
    Lần sửa cuối bởi longtadinh, ngày 03-01-2020 lúc 20:14.
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  10. 19 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    bần tăng (01-01-2020),Dungnph (28-04-2022),hoanlinh (06-01-2020),Hoasentrang (30-04-2022),kiencuong304 (03-01-2020),Lê Minh (03-01-2020),manhtuongngo (04-01-2020),Ngô Minh Thành (01-01-2020),NguyetQuangTu (29-06-2023),phuongpham (29-04-2022),Phương Nam (03-01-2020),tanrau (03-01-2020),Thanh Quang (05-01-2020),THANHTINH (14-01-2020),thanhvinh (29-04-2022),theoThầy (04-05-2022),Trần Kim Cương (03-01-2020),trungthanh (02-01-2020),TuMinh (02-01-2020)

  11. #6
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định Nguyễn Cao.( 1837 – 1887)

    Nguyễn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Thế Cao, hiệu là Trác Phong, sinh năm Đinh Dậu (1837) tại làng Cách Bi - Quế Võ – Bắc Ninh. Nguyễn Cao sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học, khoa bảng. Cha ông là Nguyễn Thế Hanh từng đỗ đầu thi Hương, làm Tri huyện các huyện Thạch An, Tiên Minh, Thuỷ Đường. Mẹ ông là Nguyễn Thị Điềm thuộc dòng họ võ quan Nguyễn Đức quê ở Quế ổ. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn thì cụ tổ dòng họ Nguyễn Thế vốn là một quan chức nhà Lê, quê ở Thanh Hoá, cụ có 6 người con trai đều làm quan cho triều đại này. Nguyễn Cao chính là con cháu của ngành tổ thứ tư của dòng họ.Vốn sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, khoa bảng, Nguyễn Cao sớm mang trong mình một tấm lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, khí phách của một bậc quân tử nho học.
    Nguyễn Cao thi đỗ Giải nguyên khoa Đinh Mão(1867) tại kỳ thi Hương nhưng Ông không ra làm quan. Ông về quê mở trường dậy học.


    Khi thực dân pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất 1873, lúc này ông mới bắt đầu làm quan. Sau khi thực dân Pháp chiếm thành Hà Nội tiến hành đánh mở rộng ra các vùng ngoại thành, trong đó có Gia Lâm. Nguyễn Cao lúc đó đang giữ chức Tán lý quân vụ tỉnh Bắc Ninh, cùng với Ngô Quang Huy đã tập hợp nghĩa quân phối hợp với Phạm Thận Duật, Trương Quang Đản bao vây thành Hà Nội, đánh bật đồn bốt của giặc tại Gia Lâm ngày 4-12-1873, sau đó kéo quân về Siêu Loại. Tiếng súng chống xâm lược Pháp của ông không chỉ mở đầu cho phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược ở tỉnh Bắc Ninh, mà còn góp phần dấy lên phong trào yêu nước chống Pháp của các sỹ phu và nhân dân nước ta lúc bấy giờ.

    Cũng vào thời gian ấy, bọn phỉ đánh phá, cướp bóc một số tỉnh miền núi phía Bắc trong đó có Bắc Giang, Nguyễn Cao đã chỉ huy đánh dẹp được bọn chúng, giữ yên cho dân chúng. Ông được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm Tri huyện Yên Dũng, rồi Tri phủ Lạng Giang. Khi đương chức ông xin triều đình cho dân khai khẩn ruộng đất hoang ở vũng Nhã Nam, Phú Bình lập nhiều trang ấp, làng xóm. Ông còn có công trong việc di dời làng từ ngoài đê vào trong nội đê để tránh lụt lội và là người cho xây văn chỉ của làng để đề cao truyền thống hiếu học, đề ra thuần phong, mỹ tục cho quê hương.Vì vậy nhân dân một số làng xã ở đây đã thờ ông làm Thành hoàng làng.

    Năm 1882 thực dân Pháp tiến đánh Bắc Kỳ lần thứ hai, Nguyễn Cao đem quân về đánh địch tại Gia Lâm và sau đó đem quân bao vây thành Hà Nội. Đến ngày 27-3-1883 ông đem quân đánh vào phố hàng Đậu, Cửa Đông (Hà Nội), sau đó rút quân về phía bắc sông Hồng. Ngày 15-5-1883, Nguyễn Cao chỉ huy nghĩa quân đánh một trận lớn tại Gia Lâm. Trận này ông bị thương nặng, nhưng vẫn giữ ý chí chiến đấu. Ông tiếp tục chỉ huy nhiều trận đánh địch ở các nơi như Phả Lại, Yên Dũng, Quế Dương, Võ Giàng, Từ Sơn, Thuận Thành.

    Năm 1884 khi thành Bắc Ninh thất thủ, Nguyễn Cao rút quân về thành Tỉnh Đạo, phối hợp với Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy lãnh đạo phong trào "Tam tỉnh Nghĩa Đoàn" hoạt động rộng khắp trên các địa bàn Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây. Ngày 27-3-1887, tại một trận đánh ở làng Kim Giang (Hà Tây) ông bị thực dân Pháp bắt. Giặc dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đều bị Nguyễn Cao cự tuyệt. Ông đã tự rạch bụng để tuẫn tiết. Không khuất phục được ông, ngày 14-4-1887 thực dân Pháp đã đem ông ra chém đầu tại vường Dừa (Hà Nội).

    Nguyễn Cao là một danh nhân lịch sử-văn hoá của dân tộc và của quê hương Bắc Ninh-Kinh Bắc. Tên ông đã được chọn đặt cho tên đường phố ở Thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Bắc Ninh, TP Bắc Giang và tên trường trung học cơ sở chuyên Quế Võ (trường THCS Nguyễn Cao). Ở Hà Nội có miếu Trung Liệt thờ Nguyễn Cao và nhiều nơi mà ông đến khai hoang, đánh giặc, dạy học nhân dân đều lập đền thờ. Đền Nguyễn Cao ở Cách Bi (Quế Võ) được Nhà nước xếp hạng Di tích lưu niệm danh nhân lịch sử-văn hóa cấp Quốc gia. Với KCTL chúng tôi còn được biết trong tâm linh Ông cũng giữ một vị trí rất quan trọng đối với tâm linh Đại Việt.


    /
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  12. 22 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    bần tăng (28-04-2022),Diệu Hồng (28-04-2022),Dungnph (28-04-2022),haixuyentb (03-11-2023),hoanlinh (01-05-2022),Hoasentrang (30-04-2022),hoatuyet (28-04-2022),lê chí công (28-04-2022),Ngộ Không (28-04-2022),NguyetQuangTu (28-04-2022),phuongpham (29-04-2022),Phương Nam (28-04-2022),tamminh (25-12-2023),Thanh Quang (29-04-2022),THANHTINH (30-04-2022),thanhvinh (29-04-2022),theoThầy (04-05-2022),thiện tai (30-04-2022),Tieutrucxinh (29-04-2022),Trung Nghĩa (28-04-2022),TuMinh (28-04-2022)

  13. #7
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định Trần Nguyên Hãn

    Trần Nguyên Hãn ( 1390 - 1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Trần - Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần cháu nội của Đại tư đồ Trần Nguyên Đán và là cháu sáu đời của Thái sư Trần Quang Khải. Ông sinh tại làng Gốm, trang Sơn Đông, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay là xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), trong thời kỳ gia đình trốn chạy hoạ diệt tộc. Chào đời chẳng bao lâu, cha ông là cụ Trần Án bị tay chân Hồ Quý Ly truy bắt và giết hại. Bà Lê Thị Hoàn - mẹ ông một mình tần tảo nuôi dạy con nhỏ. Ông nổi bật với việc tham gia khới nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống sự đô hộ của quân Minh. Ông từng giữ chức Tư đồ (1424–1425), Thái úy (1427), chỉ huy các trận đánh giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (1425–1426), bao vây Đông Quan, công phá thành Xương Giang và chặn đường tiếp tế của quân Minh trong Trận Chi Lăng - Xương Giang (1427).

    Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, tức Lê Thái Tổ (1428). Trần Nguyên Hãn được phong làm Tả tướng quốc. Nhưng về sau vì tính đa nghi, Thái Tổ bắt tội ông khiến ông tự sát. Đến đời Hoàng đế Lê Nhân Tông, ông mới được ân xá và khôi phục chức vị.

    Tháng 2/1410, Trần Nguyên Hãn bí mật chiêu tập thanh niên trai tráng trong vùng tổ chức luyện quân, lập căn cứ tại rừng Thần, ao Tó, đầm Trạch (nay gọi là đầm Đa Mang) thuộc hai xã Sơn Đông, Văn Quán để chờ thời cơ đánh giặc cứu nước.
    Trong một trận càn của giặc vào làng, chúng bắt bà Hoàn và nhiều người khác đem giết. Ông đã cải trang, đột nhập vào giết chết tên huyện quan tay sai chỉ điểm Trần Thiêm Ích ngay tại nhà hắn, loại trừ cho dân một tên phản quốc hại dân. Một đêm khác, ông dẫn đầu nghĩa quân rừng Thần đánh diệt thành Tam Giang, làm chủ cả vùng Bạch Hạc khiến quân Minh phải kinh hồn bạt vía.

    Cuối năm 1415, Trần Nguyên Hãn cùng Nguyễn Trãi trốn vào Thanh Hóa tìm gặp Lê Lợi. Nguyễn Trãi dâng “Bình Ngô sách”, được Lê Lợi mừng rỡ đón nhận và phong ông làm Hàn lâm thừa chỉ học sĩ coi việc soạn thảo văn thư, chiếu hịch, tham dự bộ tham mưu. Trần Nguyên Hãn xin về quê dẫn quân vào gia nhập nghĩa quân Lam Sơn.Gần tết năm Mậu Tuất (1418), Trần Nguyên Hãn đem hai trăm quân tinh nhuệ của nghĩa quân rừng Thần cùng hơn trăm ngựa chiến vào tụ nghĩa. Trần Nguyên Hãn đã dâng Lê Lợi thanh bảo kiếm của Tướng quốc Thái sư Trần Quang Khải để tỏ rõ một lòng một dạ phò Lê Lợi chống giặc cứu nước. Vốn đã biết tiếng về Trần Nguyên Hãn, Lê Lợi xếp ông vào bộ tham mưu, nằm trong bộ “ tứ trụ phù Lê” của cuộc khởi nghĩa và giao cho ông việc rèn luyện nghĩa quân. Kể từ đó, với tài thao lược của mình, ông đã giúp Lê Lợi xây dựng phát triển lực lượng và trực tiếp lãnh đạo nghĩa quân tiến hành nhiều trận đánh lớn, giành nhiều thắng lợi quan trọng góp phần giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của giặc Minh sau này. Điển hình là các chiến công:

    Giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá: Tháng 8/1425, Trần Nguyên Hãn, lúc này đã được phong chức Tư đồ), đã cùng các tướng lĩnh xuất quân đánh chiếm hai trấn Tân Bình và Thuận Hoá (các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay). Trong vòng 10 tháng, ông đã chỉ huy giải phóng toàn bộ vùng Tân Bình – Thuận Hóa, xây dựng thành hậu phương lớn vững chắc cho nghĩa quân. Hơn hai vạn trai tráng tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Thế và lực của nghĩa quân Lam Sơn phát triển lên một bước rất cao khiến giặc Minh ngày càng lâm vào thế bị động.

    Chiến thắng Đông Quan:
    Cuối tháng 10/1426, Trần Nguyên Hãn theo Lê Lợi ra đánh miền Bắc. Ngày 22/11/1426, đợt công phá thành Đông Quan bắt đầu với lực lượng tấn công được chia thành 3 cánh: Một cánh do Đinh Lễ chỉ huy, gồm 1 vạn quân tấn công vào cửa Tây; Cánh trung tâm do Lê Lợi đích thân đốc xuất tấn công vào cửa Nam; và Cánh quân thủy tấn công vào cửa Đông giao cho Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị. Trần Nguyên Hãn đem 100 thuyền theo sông Lung Giang (sông Đáy) ra cửa Hát Giang rồi thuận sông Hồng tiến về Đông Bộ Đầu (dốc Hàng Than ngày nay) đánh tan đội thủy quân địch bắt hơn 100 chiến thuyền giặc, cắt đứt cầu nối Hà Nội - Gia Lâm đồng thời phối hợp đập tan đạo quân của tướng Phương Chính bảo vệ vòng ngoài của thành Đông Quan. Vương Thông phải rút vào cố thủ trong thành Đông Quan, xin vua Minh cho quân ứng cứu. Sau trận này ông được phong Thái úy là chức quan cao nhất trong hàng ngũ tướng lĩnh.

    Hạ thành Xương Giang:
    Xương Giang là một thành lớn kiên cố, thuộc vùng đất làng Đông Nhan, xã Thọ Xương (nay là xã Xương Giang, thành phố Bắc Giang) cách thành Đông Quan chỉ khoảng 50 km, nằm án ngữ ngay trên đường thiên lý từ Quảng Tây tới Đông Quan. Vị trí quân sự chiến lược này khiến thành này trở thành mục tiêu trọng yếu phải hạ bằng mọi giá trước khi quân Minh nhập Việt. Từ cuối năm 1426, thành Xương Giang đã bị nghĩa quân Lam Sơn vây hãm, nhiều tướng tổ chức hơn 30 trận công thành song đều thất bại, Nguyễn Trãi hai lần viết thư dụ hàng cũng không đem lại kết quả. Tháng 9/1427, được tin viện binh địch đã đến gần, Lê Lợi giao cho Trần Nguyên Hãn lên trực tiếp chỉ huy với nhiệm vụ phải hạ được thành Xương Giang. Sau khi xem xét tình hình, ông cho đào công sự từ các khu rừng lân cận, đào hầm ngầm từ ngoài vào trong thành và huy động dân chúng các làng xung quanh tham gia giúp đỡ nghĩa quân. Đêm mồng 8/9/1427, ông mở cuộc tấn công tổng lực, nội công ngoại kích, bốn mặt cùng đánh. Chưa đầy một canh giờ toàn bộ quân địch bị tiêu diệt, các tướng giặc đều bị chết hoặc bị bắt. Hai tên tướng chỉ huy việc giữ thành là Lý Nhậm và Kim Dận phải nhảy xuống thành tự tử. Được tin thắng trận, Lê Lợi đã vui mừng thốt lên với lời cảm phục: “Đại tư đồ Trần Nguyên Hãn đã không phụ lòng ta. Tài cầm quân của Đại tư đồ quả là bản triều không ai sánh được. Ta không ngờ thắng nhanh đến thế!”. Sau này, trong sách Đại Việt thông sử Lê Quí Đôn cũng viết: “Có thể nói trong lịch sử chống ngoại xâm, đây là lần hiếm hoi có một trận thắng của quân ta triệt hạ được một thành trì quan trọng có số quân lớn. Có lẽ thành công của chiến thắng Xương Giang chỉ đứng sau sự kiện Lý Thường Kiệt hạ thành Ung Châu”.

    Tiêu diệt quân tiếp viện, buộc quân Minh ký hoà ước rút về nước: Sau khi hạ thành Xương Giang, Trần Nguyên Hãn tiếp tục nhận lệnh lên biên giới Lạng Sơn đánh chặn cánh quân tiếp viện của Liễu Thăng. Với chức vị Thái úy, Trần Nguyên Hãn là tướng đầu triều trên chiến trường, trực tiếp thị sát trận địa và vạch phương án phối hợp chiến đấu với các cánh quân của Trần Lựu, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt…
    Liễu Thăng chết chém cùng 1 vạn quân tại gò Mã Yên, thêm 1 vạn quân Minh bỏ thây tại trận Cần Trạm, khoảng 1 vạn nữa thiệt mạng trên đường từ Cần Trạm tới Phố Cát và Binh bộ Thượng thư Lý Khánh tự vẫn. Lại hay tin thành Xương Giang đã mất, quân Minh đành đắp luỹ, co cụm trên một cánh đồng trống trải cách thành khoảng 3 km. Dưới sự chỉ đạo của Trần Nguyên Hãn, ngày 3-11-1427 nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu mở trận tổng công kích, đồng thời chặn đường rút quân và triệt đường tải lương của giặc. Điều này đóng vai trò lớn trong thắng lợi giết năm vạn quân, bắt sống ba vạn quân và 300 tướng lĩnh nhà Minh. Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang là đòn quyết định cuối cùng đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Minh, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vương Thông thấy không còn con đường nào khác, đành phải nhận giảng hòa. Ngày 16/12/1427, hai bên tổ chức hội thề ở phía Nam thành Đông Quan trên gò Nam Phụ (ở phố Thợ Nhuộm đối diện với di tích nhà tù Hỏa Lò ngày nay) để quân Minh chính thức tuyên bố rút quân về nước.

    Tháng 3/1428, tại đại hội định công ban thưởng Trần Nguyên Hãn được gia phong “Tả tướng quốc, Bình chương quân quốc trọng sự, Khu mật đại sứ”, được cấp 114 mẫu ruộng. Vốn là người có tầm nhìn rộng lớn và hiểu biết sâu sắc, nên chỉ ít lâu sau khi nhận chức Tả tướng quốc, cuối năm 1428, ông xin từ chức về nghỉ tại quê nhà. Về quê, Ông liền bắt tay vào việc vận động phát triển nghề gốm, đẩy mạnh giao thương bằng thuyền buôn lớn, động viên thanh niên luyện tập võ nghệ, rèn luyện sức khỏe phát huy truyền thống quê hương. Nhưng những việc làm tốt đẹp này của ông đã bị bọn gian thần đặt điều vu cáo thành “có ý đồ làm phản”. Ngày 30/3/1429, Vua Lê Lợi sai 42 lực sĩ xá nhân đi bắt Trần Nguyên Hãn về triều hỏi tội. Trên đường về Thăng Long, thuyền vừa đến bến Đông Hồ trên dòng sông Lô, ông ngửa mặt lên trời khấn rằng: “Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước cứu dân. Nay sự nghiệp lớn đã thành, Hoàng thượng nghe lời dèm pha mà hại tôi. Xin Hoàng thiên biết cho!” rồi ông tự trầm mình. 26 năm sau (1455), Trần Nguyên Hãn được vua Lê Nhân Tông xuống chiếu minh oan, trả lại ruộng đất, của cải cho con cháu ông, ra lệnh phục chức và truy phong ông là “Phúc thần”, cho gọi con cháu ra làm quan nhưng không ai ra. Nhân dân tôn phong ông hiệu “khai quốc nguyên huân”. Đời nhà Mạc, ông được truy phong là “Tả tướng quốc trung liệt đại vương”. Đời nhà Nguyễn, năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), triều đình ban sắc phong “Tuần hương lương trực Tả tướng quốc Trần phủ quân chi thần”. Sau khi được vua Lê Nhân Tông xuống chiếu minh oan, người dân Sơn Đông đã xây đền thờ ông ngay trên nền nhà cũ, gọi là đền “Trần Tả Tướng”, còn có tên là “Đền Quốc Công”. Ngoài ra đền thờ ông còn có ở thôn Đức Lễ, xã Văn Quán, nơi có căn cứ Rừng Thần cũ; ở làng Phan Lãng, xã Cao Phong, nơi lập trang trại đầu tiên của gia đình ông và ở núi Côn Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương trong cụm di tích đền thờ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn. Tại Chi Lăng, nhân dân tỉnh Lạng Sơn cũng đã lập viện bảo tàng Trần Nguyên Hãn.

    Thông qua thân thế và những việc làm của Trần Nguyên Hãn chúng ta thấy rằng Ông là một nhà yêu nước nồng nàn, sáng suốt, biết gắn quyền lợi của dòng tộc với quyền lợi của dân tộc trong thời đại mà đất nước lâm nguy trước nạn ngoại xâm. Với lòng yêu nước, cùng với những tài năng của mình, Ông đã đóng góp rất lớn sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  14. 16 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    bần tăng (30-06-2023),haixuyentb (03-11-2023),Hạnh An (29-06-2023),Hoasentrang (30-06-2023),lê chí công (30-08-2023),MinhTam8 (30-06-2023),NguyetQuangTu (29-06-2023),phuongngoc (30-06-2023),Phương Nam (01-07-2023),tamminh (25-12-2023),Thanh Quang (25-12-2023),THANHTINH (23-12-2023),thiện tai (30-06-2023),Trung Nghĩa (29-06-2023),tuluyenthantam (09-07-2023),TuMinh (30-06-2023)

  15. #8
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định

    ĐẶNG THÁI THÂN (1872-1910)

    Đặng Thái Thân (Quý Dậu 1873 -Canh Thân 1910) hiệu Ngư Hải, Ngư Ông, là chí sĩ, nhà yêu nước trong lịchsử thời cận đại,; quê ở làng Hải Côn, xã Nghi Thái, huyện Nghi Lộc, tỉnh NghệAn; là học trò xuất sắc của cụ Đặng Nguyên Cẩn. Ông đỗ đầu xứ nên gọi là XứĐặng, ông cũng là học trò và đồng chí của Phan Bội Châu.

    Năm 1904,tại nhà Tiểu La Nguyễn HàmQuảng Nam,với sự hiện diện của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cùng hơn 20 người khác, Duy Tân hội được tuyên bố thành lập. Cường Đểđược lập làm Hội chủ. Các thành viên chính của hội gồm Phan Bội Châu, Đặng TháiThân, Nguyễn Hàm, Trình Hiền, Lê Vũ, Đặng Tử Kính.
    Tháng 9năm 1908,chính phủ Nhậtthi hành hiệp ước Pháp-Nhật, theo đó ra lệnh giải tán Đông Á đồng văn thưviệnCống hiến hội, trục xuất du học sinh ra khỏi đất Nhật. Thờigian đó, phong trào Đông Du ở trong nước cũng bị chínhquyền thực dân Pháp trấn áp mạnh, Đặng Thái Thân phảirút vào núi hoạt động. Ngày 02-02-1910,ông lẻn về hoạt động tại làng Phan Thôn thì bị địch vây, thế cùng ông đã dùngsúng chống cự quyết liệt, bắn chết tên tay sai Một Độ và hủy hết tài liệu bí mật sau đó ông tự sát.Thực dân Pháp cho kéo lê thi thể ông từ huyện Nghi Lộc về TP.Vinh. Khâm phục ýchí kiên cường và đức hy sinh cao cả của Đặng Thái Thân nên nhân dân đã bí mậtan táng ông ở TP.Vinh. Về sau, cụ Phan bội Châu di chuyển hài cốt của cụ ĐặngThái Thân về chôn cất ở quê vợ tại cánh đồng Bầu Nón, làng Thanh Thủy (nay làxã Nam Thanh, huyện Nam Đàn).
    Thương xót ông vô hạn,nhiều đồng chí, đồng bào, sĩ phu Nghệ Tĩnh đã tổ chức tang lễ và viếng ông đôicâu đối: "Hai hòn ngun ngút, bạn cũ về, đâu về? Trải mười năm cay đắng đủmùi, mình vì đó mà ốm, máu vì đó mà khô, rong ruổi non sông chìm sóng gió. Mộttiếng nổ rầm, hồn nước tỉnh, chưa tỉnh? Ngoài ngàn dặm bước đường phiêu lạc,chú nghe tin mà buồn, thầy nghe tin mà khóc, hò reo hào kiệt cạnh đàngươm". Trong Ngục Trung Thư, Phan Bội Châu đã viết: "Đặng Quân vốnngười hăng hái, gan dạ, nhân phẩm lại cao, trải mười năm vừa là thầy vừa là bạntôi".
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  16. 17 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    bần tăng (01-11-2023),haixuyentb (03-11-2023),HoangSyHiep (02-11-2023),Hoasentrang (03-11-2023),lê chí công (01-11-2023),Minh Toàn (03-11-2023),NguyetQuangTu (01-11-2023),Phương Nam (01-11-2023),Tamhuongthien (01-11-2023),tamminh (25-12-2023),Thanh Quang (01-11-2023),THANHTINH (23-12-2023),thiện tai (02-11-2023),Trung Nghĩa (01-11-2023),Vidieu (03-11-2023),Đại Minh (07-11-2023),ĐINHQUANG HIỆP (01-11-2023)

  17. #9
    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Đang ở
    Hưng Yên
    Bài viết
    129
    Cảm ơn!
    4,390
    Thanked 2,136 Times in 132 Posts

    Mặc định

    Trần Khánh Dư (13 -03-1240 - 23-04-1340), hiệu là Nhân Huệ vương, là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần. Trần Khánh Dư quê ở Chí Linh, Hải Dương, cha là Thượng tướng Nhân Huệ hầu Trần Phó Duyệt, tương truyền mẹ là Trần Thái Anh. Khi còn thiếu thời, rất ít chuyện ghi chép về ông. Ông nổi bật với việc giữ chức Phó đô tướng quân trong khánh chiến chống Nguyên lần 2 và 3, tiêu diệt đoàn thuyền lương quân Nguyên ở Vân Đồn năm 1288, tham gia chinh phục Chiêm Thành năm 1312. Sau các chiến công ông được nhận làm thiên tử nghĩa Nam và được phong làm phiêu kỵ đại tướng quân.
    Sau khi có được địa vị, Trần Khánh Dư lại vướng phải vụ án gian dâm với Thiên Thuỵ công chúa là vợ chưa cưới của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn vì là con trai Hưng Đạo vương Quốc Tuấn, lại có công đánh giặc nên rất có uy thế, nên Thượng hoàng mới gả Thiên Thụy công chúa cho.
    Đến đây, sự việc phát giác, tuy nhà Trần không xa lạ với chuyện thân thích cưới gả, thế nhưng Trần Khánh Dư thân là Thiên tử nghĩa nam lại có hành vi tư thông, là một loại quan hệ đáng lên án của xã hội xưa. Trong phiên tòa xử tội ông,Vua Trần Thánh Tông sợ phật ý Hưng Đạo vương mà đã phạt tội đánh đến chết, nhưng Thánh Tông lại ngầm hạ lệnh cho lính đánh chúc đầu gông xuống, nhờ thế mà qua 100 roi Trần Khánh Dư vẫn sống. Theo luật thời đó, qua 100 roi mà không chết nghĩa là trời tha, nhờ vậy mà ông đã được miễn tội chết.

    Sau đó, ông bị phế truất binh quyền, tịch thu gia sản phải trở về Chí Linh làm nghề bán than củi.
    Năm 1283, ông được vua Trần Nhân Tông phục chức và được phong làm Phó đô tướng Quân trấn giữ Vân Đồn.
    Lúc đó, thuyền vua đỗ ở bến Bình Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua chỉ và bảo quan thị thần: "Người kia chẳng phải là Nhân Huệ vương đó sao?".
    Lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Đến cửa Đại Than thì kịp. Quân hiệu gọi: "Ông lái ơi, có lệnh vua triệu".
    Khánh Dư trả lời: "Lão là người buôn bán, có việc gì mà phải triệu". Quân hiệu trở về tâu thực như thế. Vua bảo: "Đúng là Nhân Huệ đấy, ta biết người thường tất không dám nói thế".
    Vua lại sai nội thị đi gọi. Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá đến gặp vua. Vua nói: "Nam nhi mà đến nỗi này thì thực là cùng cực rồi", bèn xuống chiếu tha tội cho ông. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.
    Trần Khánh Dư có công lớn trong việc đánh tan đạo binh thuyền chở lương thực, khí giới của quân Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy vào tháng 12 năm 1287, góp phần làm xoay chuyển tình thế chiến tranh.

    Tháng 5 năm 1312, ông theo Trần Anh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành. Trận này quân Đại Việt bắt được chúa Chiêm Thành là Chế Chí đem về.
    Năm 1323, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư xin về trí sĩ, tại vùng ấp ông được phong, thuộc xã Dương Hòa, lộ Lý Nhân (Hà Nam).

    Một lần, ông đi chơi đến Tam Điệp, Trường Yên (Ninh Bình), qua vùng đất thấy đồng cỏ bát ngát, sông nước hữu tình, ông bèn sai gia nhân đến khai khẩn, lập thành làng mới. Dần dần, người kéo đến làm ăn ngày càng đông. Ông đặt tên là trai An Trung. Sau đó, dân các vùng khác tiếp tục đến, lập thêm trại Đông Khê và trại Tịch Nhi, thuộc hai xã Yên Nhân và Yên Đông, huyện Ý Yên Nam ( Nam Định).

    Ông ở lại những nơi mới khai phá này 10 năm. Sau đó, ông trở về ấp Dưỡng Hòa cũ và giao lại các trại mới lập cho hai gia tướng họ Bùi và họ Nguyễn coi sóc. Trong buổi đầu khai hoang lập ấp, ông đã bỏ tiền nhà ra giúp vốn cho dân, ông còn hướng dẫn dân trại Tịnh Nhi trồng cây cói và làm nghề dệt cói.

    Năm 1340, Nhân Huệ vương mất, không lâu sau lễ mừng thọ 100 tuổi. Nhân dân trong vùng lập đền thờ ông ở trại An Trung, trên nền nhà xưa ông đã ở, để ghi tạc công đức của ông. Trong đền có bức đại tự: "Ẩm hà tư nguyên" (Uống nước nhớ nguồn) và đôi câu đối:
    Nhân Huệ Vương tân sáng giang biên, thố địa ốc nhiều kim thượng tại
    Bùi, Nguyễn tộc cựu mô kế chí, gia cư trù mật cổ do lưu.
    Tạm dịch:
    Nhân Huệ Vương mở mới bến sông, đồng ruộng tốt tươi nay vẫn đó
    Họ Bùi Nguyễn theo nền nối chí, cửa nhà đông đúc trước còn đây.
    Lần sửa cuối bởi longtadinh, ngày 27-12-2023 lúc 20:57.
    "Dắt Tay Chúng Sinh Cùng Tu Đạo"

  18. 11 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới longtadinh

    bần tăng (23-12-2023),Diệu Hồng (26-12-2023),HoangSyHiep (11-01-2024),Nghệ Linh (24-12-2023),NguyetQuangTu (23-12-2023),Phương Nam (25-12-2023),tamminh (25-12-2023),Thanh Quang (25-12-2023),THANHTINH (23-12-2023),Trung Nghĩa (24-12-2023),TuMinh (25-12-2023)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •