Kết quả 1 đến 5 của 5
  1. #1
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    10
    Cảm ơn!
    1
    Thanked 77 Times in 9 Posts

    Mặc định Thảo luận:Tâm linh và triết học

    Thưa thầy!
    Thưa các bác, các đồng chí trong diễn đàn!
    Con được học từ thầy là một con người bước vào đường tu ít nhất cũng phải tự băn khoăn rằng: ta là ai, ta từ đâu đến , ta có nhiệm vụ gì và ta sẽ đi đâu?
    Như bác Simba có đưa ra ý kiến trong 1 bài rằng vạn vật và tự nhiên sinh ra là tự nhiên nó thế. Con xin trích nguyên văn như sau:"- Vì sao có cái bàn? cái ghế? quần áo?
    - Những thứ đó là sản phầm của con người, con người làm ra để đáp ứng nhu cầu sử dụng của mình.
    - Vậy vì sao có cây cối, đất, nước, các vì sao,...?
    - Những thứ đó là sản phẩm của tự nhiên mà sản phẩm của tự nhiên thì nó không có mục đích gì hết. Nếu cố gắng tìm hiểu thì ta chỉ có thể hiểu được tự nhiên đã tạo ra những thứ đó như thế nào chứ không thể trả lời được câu hỏi "vì sao" đâu.
    Thế giới trần tục, thế giới tâm linh, tâm, khí, đất, nước,... đều là những sản phẩm của tự nhiên mà thôi, ta không thể giải thích được vì sao có nó. Tuy nhiên con người biết cách sử dụng sản phẩm của thiên nhiên để tạo ra những công cụ phục vụ cho con người và ta chỉ có thể giải thích vì sao lại có những sản phẩm do con người làm ra mà thôi."
    Xin phép không bàn tới đúng hay sai trong vấn đề cách hiểu của Simba, vì nếu xét cho cùng vấn đề vật chất tạo ra ý thức và ý thức tạo ra vật chất thì quan điểm của Simba đã mắc vào cái chấp của việc cố gắng tránh né câu trả lời thật sự.
    Thế nhưng khi xét vào câu hỏi này, có một vấn đề nảy sinh. Thầy nói đã là đi tu, đi học thì khi học, khi tìm hiểu phải hiểu rõ ràng ngọn ngành. Nếu cố gắng hiểu rõ ràng ngọn ngành như cách của simba, tức là cố đào cho ra câu trả lời thì cũng lại trở thành phản tác dụng. Như vậy, xét về mặt lí luận, phải chăng những gì ta không hiểu rõ được thì ta sẽ không phát ngôn về cái đó?
    Mong thầy và đồng đạo góp ý cho con về câu hỏi này.
    Lần sửa cuối bởi Hoctro, ngày 08-06-2010 lúc 16:49. Lý do: thiếu

  2. 15 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Hoctro

    hoatuyet (29-05-2014),lê chí công (29-09-2014),longtadinh (27-05-2014),maiha (27-05-2014),newebook (28-05-2014),Ngô Minh Thành (31-05-2014),Ngoạn Hiền (28-05-2014),Phương Nam (28-05-2014),quangdam (27-05-2014),Tamhuongthien (28-05-2014),tam_thuc (28-05-2014),thanhphong (25-07-2014),tiendung23680 (29-05-2014),TuMinh (28-05-2014)

  3. #2
    Ngày tham gia
    Apr 2010
    Bài viết
    1,159
    Cảm ơn!
    4,606
    Thanked 42,548 Times in 1,226 Posts

    Mặc định

    Chào Họctrò
    Tôi là người ngay từ nhỏ đã rất thích đặt ra những câu hỏi: Tại sao?
    Trong tu luyện tôi đã trả lời được những câu hỏi :
    Ta là ai ?
    Ta từ đâu đến ?
    Ta có nhiệm vụ gì và ta sẽ đi về đâu ?
    Tôi cũng đã biết được câu trả lời: Ai sinh ra tự nhiên ?
    Nói như thế không có nghĩa là mọi câu hỏi đều có câu trả lời.
    Bản thân tôi cũng còn rất nhiều câu hỏi mà chưa có câu trả lời.
    Hơn nữa cũng cần phải cân nhắc xem đã nên nói ra ngay bây giờ tất cả những điều mình đã biết hay chưa ?
    Trong lý luận triết học theo nhận thức của tôi thì có hai mặt bằng: Mặt bằng nhận thức và mặt bằng tư duy.
    Ta chỉ có thể nhận thức được những gì nằm trong mặt bằng tư duy mà ta hiện có,những cái gì vượt ra khỏi mặt bằng tư duy của ta thì ta không nhận thức nổi nữa.
    Muốn xác lập được mặt bằng tư duy mới thì ta phải có được những thông tin chân thực mới,những thông tin mới này lại nằm ngoài mặt bằng nhận thức cũ mà chúng ta đang có.
    Nói như thế nghe có vẻ luẩn quẩn bởi vì nó lại bị rơi vào trường hợp : Không thể giải thích cho người không biết uống rượu rằng rượu nào ngon hơn rượu nào !
    Ở những mặt bằng tư duy khác nhau thì ta hiểu được hoặc trả lời được những câu hỏi khó,dễ khác nhau.
    Muốn nhận thức được những hiện tượng mới mà từ trước đến nay ta chưa gặp bao giờ thì đòi hỏi phải xác lập được một mặt bằng tư duy mới.
    Muốn giải thích được những hiện tượng mới mà từ trước đến nay ta chưa gặp bao giờ thì đòi hỏi phải có một lý thuyết mới.
    Theo nhận thức của tôi hiện nay thì mọi câu hỏi đều có thể có câu trả lời,trừ câu hỏi cuối cùng.
    Mỗi một mặt bằng tư duy lại có một câu hỏi cuối cùng của nó,mà mặt bằng tư duy cuối cùng thì không biết ở đâu bởi vì không gian là vô cùng vô tận.
    Nói một cách khác là học tập và tu luyện sẽ giúp ta đi lên các bậc thang kiến thức,nhưng cái thang kiến thức này không có bậc cuối cùng.
    Cái gì ta chưa hiểu rõ được thì khi phát ngôn về nó nên cân nhắc thận trọng,nếu ta không phát ngôn về nó thì ta lại không thể leo thêm lên bậc thang kiến thức được nữa.
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm

  4. 36 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới NguyetQuangTu

    BONGMAYHOA (27-05-2014),chieuthuvang08 (28-05-2014),haixuyentb (27-05-2014),Hạnh An (27-05-2014),hoanlinh (27-05-2014),hoatran (27-05-2014),hoatuyet (29-05-2014),hocdao (28-05-2014),HongThai (27-05-2014),lê chí công (27-05-2014),LinhTâm (29-05-2014),longtadinh (24-03-2014),maiha (27-05-2014),Một điều lành (08-04-2023),newebook (28-05-2014),nganuoc (28-05-2014),Ngô Minh Thành (31-05-2014),Ngoạn Hiền (28-05-2014),nguyentran (28-05-2014),nhatcuunhan (27-05-2014),Phương Nam (28-05-2014),quangdam (27-05-2014),River (16-12-2013),Tamhuongthien (28-05-2014),tam_thuc (28-05-2014),Thanh Bình (29-05-2014),thanhphong (25-07-2014),THANHTINH (27-05-2014),Thiền sư KM (27-05-2014),tiendung23680 (29-05-2014),tuluyenthantam (11-05-2014),TuMinh (28-05-2014),turaunt (27-05-2014),Đại Minh (28-05-2014)

  5. #3
    Ngày tham gia
    Jul 2013
    Bài viết
    6
    Cảm ơn!
    1
    Thanked 63 Times in 6 Posts

    Mặc định

    Giáo sư triết học và niềm tin

    Vị giáo sư triết học, là người vô thần, không tin có Thượng Đế, đứng trước lớp học của ông và nói:
    - Để tôi nói cho các bạn biết là tôn giáo vốn có những điều không ổn đối với khoa học.
    Ông liền chỉ một người trong đám sinh viên mới của ông và bảo anh ta đứng dậy:
    - Này con, con là người theo đạo Tin Lành phải không?
    - Thưa thầy, phải.
    - Vậy thì con tin vào Đức Chúa Trời?
    - Vâng, tuyệt đối như vậy.
    - Vậy thì Đức Chúa Trời có tốt không?
    - Chắn chắn rồi. Ngài rất tốt.
    - Vậy thì Đức Chúa Trời toàn năng? Ngài làm được mọi sự không?
    - Vâng, được mọi sự.
    - Thế con là người thiện hay ác?
    - Kinh Thánh nói con là người ác.
    Vị giáo sư hơi nhăn mặt:
    - A ha! Kinh Thánh!
    Ông trầm ngâm một chút.
    - Đây, ta hỏi con.. Ví dụ như có một người bệnh ở đây và con có thể chữa được cho ông ta. Con có khả năng làm việc đó. Vậy con có muốn giúp ông ta không? Con có muốn thử giúp không?
    - Thưa thầy, con sẵn lòng.
    - Như vậy con là thiện.
    - Con không dám nói như vậy.
    - Nhưng tại sao không nói được? Vì con sẵn lòng cứu một người bệnh hoạn tật nguyền. Đa số chúng ta đều sẵn lòng. Nhưng Đức Chúa Trời thì không.
    Người sinh viên không trả lời. Do đó vị giáo sư tiếp tục:
    - Đức Chúa Trời không giúp, có đúng không? Người em của ta là một Cơ đốc nhân chết vì bệnh ung thư, mặc dù cậu ấy cầu nguyện Chúa Jesus chữa lành cho. Làm sao mà nói rằng Chúa Jesus tốt cho được? Con trả lời điều đó cho ta được không?
    Cậu sinh viên vẫn đứng im lặng.
    - Con không trả lời được phải không?
    Vị giáo sư nói. Ông chậm rãi lấy ly nước trên bàn hớp một ngụm để cho cậu sinh viên thời gian thư giãn. Ông giáo sư lại nói:
    - Thôi bắt đầu lại cậu ơi. Này, Đức Chúa Trời có tốt không?
    - Ơ… Vâng, tốt.
    Cậu sinh viên nói.
    - Thế Satan có tốt không?
    Cậu sinh viên không ngần ngại ở chỗ này:
    - Không!
    - Thế thì Satan từ đâu ra?
    Cậu sinh viên yếu ớt:
    - Từ Chúa mà ra.
    - Đúng thế… Chúa tạo dựng ra Satan phải không? Hãy nói cho ta biết. Thế giới này có điều ác không?
    - Thưa thầy, có.
    - Điều ác ở khắp nơi, phải không? Và chính Chúa đã tạo dựng ra Mọi Sự, có đúng vậy không?
    - Thưa đúng.
    - Vậy thì ai tạo ra điều ác?
    Vị giáo sư tiếp tục:
    - Nếu Đức Chúa Trời tạo dựng ra mọi sự, vậy thì Chúa đã tạo ra điều ác, bởi vì điều ác hiện hữu, và theo nguyên tắc khoa học đã định nghĩa, thì Đức Chúa Trời là ác.
    Thêm lần nữa, cậu sinh viên không có câu trả lời.
    - Thế những bệnh tật, vô luân, thù hận, và những điều xấu xa, tất cả điều đó có thật không?
    Vị giáo sư nói.
    - Vâng, đúng là có thật như thế.
    Cậu sinh viên cúi rùn trên hai chân của mình.
    - Thế ai đã tạo ra chúng?
    Cậu sinh viên lại không trả lời, nên vị giáo sư lập lại câu hỏi:
    - Ai đã tạo ra chúng?
    Lại vẫn không có câu trả lời. Thình lình, vị giáo sư bỏ đi đến trước lớp học, đi qua đi lại. Cả lớp như chết lặng trong ngột ngạt.
    - Nói cho ta biết, ông tiếp tục trên một sinh viên khác. Con có tin vào Chúa Jesus Christ không?
    Cậu sinh viên này lạc giọng:
    - Vâng, thưa giáo sư, con tin.
    Ông ta dừng lại:
    - Khoa học nói rằng bạn có năm giác quan. Chúng ta dùng chúng để nhận diện và quan sát thế giới chung quanh chúng ta. Vậy có bao giờ các cậu thấy Chúa Jesus Christ chưa?
    - Thưa không, con chưa bao giờ găp Ngài.
    - Vậy hãy nói cho chúng ta biết, con có nghe Chúa Jesus của con bao giờ không?
    - Thưa không, con chưa bao giờ nghe.
    - Thế, con có bao giờ cảm giác Chúa Jesus không, nếm được Jesus hay là ngửi được Chúa Jesus của con không? Thế con có bao giờ cảm ứng được về Chúa Jesus Christ hay là Đức Chúa Trời trong cùng ý nghĩa đó không?
    - Không, thưa thầy, con e rằng con chưa cảm nhận như vậy bao giờ.
    - Vậy mà cậu vẫn tin vào Ngài sao?
    - Vâng.
    - Theo nguyên tắc của kinh nghiệm, thử nghiệm và chứng minh khoa học, thì khoa học xác nhận rằng Đức Chúa Trời không hiện hữu. Vậy thì cậu biện minh thế nào về điều đó?
    - Không có điều gì, thưa thầy. Con chỉ có Đức Tin.
    - Vâng, đức tin. Vị giáo sư lập lại. Và chính đó là điều mà khoa học thấy là nan giải đối với đức tin về Đức Chúa Trời. Không có bằng chứng gì cả, mà chỉ có đức tin.
    Cậu sinh viên đứng im lặng một lúc, trước khi đặt câu hỏi lần đầu tiên với vị giáo sư:
    - Thưa thầy, có một điều gì gọi là “nhiệt”, là sức nóng chăng?
    - Vâng.
    - Và có điều gì gọi là “hàn”, là sức lạnh không?
    - Có chứ, có sức lạnh chứ!
    - Thưa thầy, không có.
    Vị giáo sư quay nhìn cậu sinh viên, và cảm thấy hết sức tò mò muốn tìm hiều. Căn phòng bỗng dưng im lặng. Cậu sinh viên bắt đầu giải thích.
    - Chúng ta có nhiều thứ nhiệt, đa nhiệt lượng, siêu nhiệt lượng, đại nhiệt lượng, tiểu nhiệt lượng, vô tận nhiệt lượng, vô nhiệt lượng, nhưng chúng ta không có thứ gì gọi là “hàn lượng”. Chúng ta có thể đưa hàn độ xuống 458 độ F dưới zero. Mỗi cơ thể hay vật thể chỉ nghiên cứu được khi truyền năng lượng, và nhiệt là thứ đã làm cho cơ thể hay vật thể có thể truyền năng lượng. Độ-không tuyệt đối (-458F) là sự hoàn toàn vắng mặt của cái gọi là Nhiệt. Như giáo sư thấy đó, Hàn, sức lạnh chỉ là chữ chúng ta dùng để nói lên sự thiếu vắng của Nhiệt mà thôi. Chúng ta không thể đo Hàn độ. Nhiệt độ có thể được đo bằng các đơn vị của hàn-thử biểu. Hàn thì không phải là đối nghịch với Nhiệt, thưa giáo sư, mà nó chỉ là sự vắng mặt của Nhiệt mà thôi. Sự im lặng phủ khắp căn phòng. Đâu đó, một tiếng rơi nhẹ của cây bút trở thành vang dội như tiếng búa.
    - Còn sự tối tăm thì sao, thưa giáo sư? Có cái gì được gọi là sự tối tăm không?
    - Vâng, có.
    Vị giáo sư trả lời không do dự.
    - Đêm tối thì chúng ta phải gọi là gì nếu không phải là sự tối tăm?
    - Thưa thầy, thầy lại sai nữa rồi. Sự tối tăm không phải là điều hay sự gì cả, mà nó chính là sự vắng mặt của điều gì đó. Chúng ta có ánh sáng thấp, ánh sánh bình thường, ánh sáng rực rỡ, ánh sáng chớp nhoáng, nhưng nếu liên tục mà chúng ta không có ánh sáng, thì chúng ta gọi đó là bóng tối, có phải không? Đó là cái nghĩa mà chúng ta dùng để định nghĩa cho cái từ đó. Trong thực tế, bóng tối không hiện hữu. Nếu nó mà hiện hữu thì chúng ta đã làm cho bóng tối càng tối hơn, có phải vậy không?
    Vị giáo sư bắt đầu mỉm cười với cậu sinh viên đang đứng trước mặt ông. Chắc khóa học này sẽ vô cùng hứng thú, ông tự nhủ:
    - Thế thì cậu mày muốn chúng minh điểm gì đây?
    - Vâng, thưa giáo sư. Con muốn chứng minh rằng nền tảng triết học của giáo sư từ khởi đầu đã có điểm khiếm khuyết. Do đó sự kết luận của giáo sư khi đặt trên nền tảng đó cũng không được vững chắc.
    Không giấu được nỗi ngạc nhiên, vị giáo sư hỏi lại:
    - Không vững chắc? Cậu có thể giải thích được không?
    - Thầy lý luận dựa trên luật đối-tính. Thầy cho rằng có Sự Sống rồi thì là có Sự Chết. Một Đức Chúa Trời tốt và một Đức Chúa Trời xấu. Thầy xem quan niệm về Thượng Đế hay Đức Chúa Trời như là một điều hữu hạn có thể đo lường được. Thưa thầy, khoa học còn chưa giải nghĩa nổi một tư-tưởng! Khoa học dùng điện lực và từ trường, nhưng có bao giờ thấy nó đâu, chứ đừng nói đến chuyện hiểu thấu được chúng một cách hoàn toàn. Nhìn xem Sự Chết như là đối nghịch với Sự Sống là chúng ta không hiểu biết sự kiện là tự bản chất Sự Chết không hề hiện hữu. Sự Chết không phải là điều gì đối nghịch với Sự Sống, mà chính là sự vắng mặt của Sự Sống. Bây giờ, thưa giáo sư, có phải thầy dạy sinh viên của thầy là: họ thoát thân từ dòng khỉ mà ra có phải không?
    - Cậu mày nói đúng, nếu dựa vào tiến trình của thuyết tiến hóa. Vâng.
    - Có bao giờ thầy thấy cái tiến hóa đó diễn ra trước mặt thầy chưa?
    Vị giáo sư lắc đầu, vẫn tiếp tục mỉm cười. Và nhận ra rằng cuộc tranh luận thật mạnh mẽ, khóa dạy này sẽ mang lại cho ông nhiều thích thú.
    Người sinh viên nói tiếp:
    - Bởi vì không một ai đã từng quan sát tiến trình của sự tiến hóa thực sự diễn ra hay không, và cũng lại càng không chứng minh được cái tiến trình này là một điều gì đang cố gắng hình thành. Như vậy không phải là giáo sư chỉ đang dạy ý kiến của mình thôi sao? Và bây giờ, thầy không phải là một nhà khoa học, mà chỉ là người giao giảng giáo điều mà thôi!
    Cả lớp bỗng bùng vỡ lên với những âm thanh nhốn nháo. Cậu sinh viên vẫn giữ im lặng cho đến khi cả lớp bình lặng lại.
    - Bây giờ con muốn tiếp tục về quan điểm của thầy lúc nãy với người bạn kia. Để con cho thầy một thí dụ về điều con muốn nói.
    Rồi cậu đảo mắt đi khắp căn phòng:
    - Có bạn nào trong lớp, có bao giờ thấy được bộ óc của giáo sư chưa?
    Cả lớp vỡ ra với những tiếng cười.
    - Có ai ở đây “nghe” được bộ óc của giáo sư đây chăng?
    Cậu lại tiếp.
    - Hay là cảm giác được bộ óc của thầy chăng? Có vẻ như không ai đã làm được chuyện đó. Vậy thì theo luật của kinh nghiệm, của thử nghiệm, của khoa học chứng minh, khoa học xác nhận rằng thầy không có bộ óc, xét theo nhiều phương diện, thưa thầy! Do vậy, nếu khoa học xác nhận rằng thầy không có bộ óc, làm sao chúng con có thể tin cậy được những điều thầy giảng thuyết nữa, thưa thầy?
    Căn phòng bỗng im lặng. Vị giáo sư nhìn chăm vào cậu sinh viên, không đoán được ông đang nghĩ gì.
    Cuối cùng, sau những giây phút gần như miên viễn, vị giáo sư già trả lời:
    - Tôi đoán là các cậu phải thu nhận những lời đó bằng đức tin mà thôi.
    Cậu sinh viên nói:
    - Vậy bây giờ thầy chấp nhận rằng có cái gọi là đức-tin, và thực ra, đức-tin hiện hữu cùng với sự sống.
    Cậu tiếp:
    - Bây giờ, có cái gì gọi là điều ác chăng?
    Không mấy tự tin, vị giáo sư trả lời:
    - Dĩ nhiên là có. Chúng ta thấy nó mỗi ngày. Nó hiện diện trong những chuyện điển hình về sự vô nhân đạo giữa người và người. Những tội ác chồng chất, và bạo động xảy ra khắp nơi trên thế giới. Những thể hiện đó gọi là gì nếu không phải là điều ác?
    Đến đây, người sinh viên trả lời:
    - Thưa thầy, điều ác không hiện hữu, hay ít nhất là nó không hiện hữu trong tự thân. Điều ác chỉ giản dị là Sự Vắng Bóng của Đức Chúa Trời. Là sự vắng mặt của Thượng Đế. Cũng giống như bóng tối, sự lạnh lẽo, chỉ là cái từ mà người ta đặt ra để diễn tả sự vắng mặt của ánh sáng, của sức nóng. Đức Chúa Trời đã không tạo ra điều ác. Điều ác chỉ là hậu quả xảy ra, khi con người không có tình yêu của Chúa trong trái tim họ. Nó giống như sự lạnh lẽo chỉ đến khi không có sự hiện diện của sức nóng, và bóng tối chỉ đến khi nào không có ánh sáng.
    Vị giáo sư ngồi xuống.
    Câu chuyện chấm dứt.
    Cậu sinh viên đó chính là Albert Einstein.
    ...

  6. 29 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới thuyphong

    An Tâm (28-05-2014),BONGMAYHOA (27-05-2014),haixuyentb (27-05-2014),Hạnh An (27-05-2014),hoatran (27-05-2014),hoatuyet (29-05-2014),hocdao (28-05-2014),lê chí công (27-05-2014),longtadinh (29-05-2014),maiha (27-05-2014),Nganpham (27-05-2014),Ngoạn Hiền (28-05-2014),nguyentran (28-05-2014),NguyetQuangTu (27-05-2014),nhatcuunhan (27-05-2014),nhuhainguyen (27-05-2014),quangdam (27-05-2014),Tamhuongthien (28-05-2014),tam_thuc (28-05-2014),Tử Minh (29-05-2014),thanhphong (25-07-2014),THANHTINH (27-05-2014),thanhvinh (27-05-2014),Thiền sư KM (27-05-2014),TuMinh (28-05-2014),turaunt (27-05-2014),Đại Minh (28-05-2014)

  7. #4
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    151
    Cảm ơn!
    77
    Thanked 1,170 Times in 136 Posts

    Mặc định

    Những luận điểm của Albert Einstein đưa ra rất minh triết. Rõ ràng người tu đạo nào mỗi khi hành đạo cũng đều nên tự hỏi bản thân về những luận điểm này để cho trái tim của mình tỏ tường hơn.
    Cám ơn bạn đã đăng bài viết này.
    Trí tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng, bản lĩnh trưởng thành trong bão giông

  8. 5 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Đỗ Tương

    longtadinh (29-05-2014),Ngoạn Hiền (28-05-2014),nguyentran (28-05-2014),Tamhuongthien (28-05-2014),tam_thuc (28-05-2014)

  9. #5
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    10
    Cảm ơn!
    1
    Thanked 70 Times in 10 Posts

    Mặc định

    Từ hoằng quan (cách nhìn rộng lớn) đến vi quan
    (cách nhìn vi tế) cho đến cái nhìn siêu việt vật chất
    làm sáng tỏ mọi hiện tượng vũ trụ

    Lời Nói Ðầu

    Mọi sinh hoạt văn minh của nhân loại vạn tượng xum la, bao gồm giáo dục, chính trị, văn hóa, kinh tế, y học v.v… đều nhắm chung mục đích là mong cầu hạnh phúc cho con người:

    Cho đến nay, khoa học kỹ thuật đã đóng vai trò dẫn đầu trong việc thực hiện mưu cầu này. Nhưng chưa thành công. Vì căn bản mọi ngành, mọi môn khoa học, chỉ lợi dụng được những năng lượng phát ra từ vật chất nên vĩnh viễn bị thời gian không gian hạn chế.

    Nay, chỉ còn một năm nữa là chúng ta bước vào thế kỷ 21, nếu muốn từ hữu hạn tiến tới vô hạn thì chúng ta nên chú tâm đến một nguồn năng lượng khác, là nguồn năng lượng phát ra từ phi vật chất.

    Trong bài này, các vấn đề lực học Newton, lực học Einstein, và lực học của Thích Ca Mâu Ni sẽ lần lượt được đề cập để chúng ta cùng nhau tham khảo.

    Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của quí vị độc giả, đồng bước tiến vào thế kỷ 21.

    Thích Duy Lực
    Dù dùng lối nhìn tổng quát để quan sát các hành tinh lớn trong vũ trụ, hay dùng cái nhìn vi tế để quan sát các nguyên tử, phân tử, điện tử, quang tử v.v… thậm chí cho đến những vật chất vi tế đến độ mà nhục nhãn chẳng thể ghi nhận, chúng ta thấy tất cả mỗi mỗi đều có công năng mật mã (tức là về cơ nhân bản thể) phát ra làn sóng tin tức chẳng ngừng. Làn sóng này gọi là từ trường, từ lực, hay lực trường của hấp dẫn lực vạn hữu mà người phát hiện là Newton. Ấy là lực trường của hoằng quan.

    Sau này, Einstein tiến thêm một bước, chứng minh định lý cho thấy tốc độ vật chất càng tiến gần đến tốc độ ánh sáng thì vật chất càng biến nhỏ đi về mặt khối lượng, trong khi lực trường thì lại càng biến mạnh hơn. Tuy vậy, dù là vi quan hoặc hoằng quan thì công năng của hai thứ này vẫn bị hạn chế về mặt số lượng bởi không gian và thời gian.

    Nếu y theo định luật của Einstein mà suy luận thì nếu vật thể biến nhỏ cho đến mức “nhỏ mà chẳng có bề trong”, thì nó biến thành phi vật chất, hư thể. Theo đó suy luận nên chúng ta dùng tốc độ ánh sáng làm lằn ranh phân biệt công năng hai thứ vật chất và phi vật chất.

    Về năng lượng do vật chất phát ra phải bắt đầu từ Newton: Ðịnh luật lực học của Newton, thích hợp phạm vi tốc độ chậm của vật chất. Ðối với sự quan hệ với không gian thời gian, chỉ giới hạn nơi dưới tốc độ ngựa và gió, thuộc tánh cố định.

    Còn định luật lực học của Einstein thì tiến thêm đến tánh khả biến, tức là khi tốc độ vật chất gần bằng tốc độ ánh sáng, thì sự quan hệ với không gian thời gian, ắt phải theo tốc độ chuyển biến. Ðồng thời cũng thuyết minh nguyên lý chuyển biến với nhau của vật chất và năng lượng. Nghĩa là vật chất vốn là cái thể hữu hình, lại có thể chuyển biến thành năng lượng (ENERGY) mà thành cái thể vô hình. Nhưng đây vẫn là quan niệm lý luận thuộc tánh tương đối, cái kết quả này cũng là do hoạt động thần kinh của não bộ sanh ra.

    Những công năng của hệ thống thần kinh biểu hiện qua hoạt động não bộ. Một cách tổng quát, sự cảm nhận của nó có thể chia làm ba bộ phận: Tìm hiểu biết, suy nghĩ biết và ghi nhớ biết. Về bộ phận ghi nhớ biết, khoa học kỹ thuật hiện tại đã bắt chước chế tạo thành computer và cải tiến rất nhanh. Còn hai bộ phận kia cũng có nhà khoa học dự đoán mấy năm gần tới sẽ được ra đời.

    Về mặt sinh lý, tâm thức của bộ não làm việc để ứng phó cuộc sống hằng ngày, gọi là “tâm vương”, gồm tám thứ thức (tiền ngũ thức và sáu bảy tám). Hiện tượng của vạn sự vạn vật trong vũ trụ, đều do tâm thức biến hiện: Liễu cảnh (chiếu rõ cảnh trần) năng biến thuộc tiền ngũ thức, tư duy năng biến thuộc thức thứ sáu, dị thục (nhân quả khác thời và mỗi mỗi khác nhau) năng biến thuộc thức thứ tám, nên nói vạn pháp duy thức. Tất cả pháp hữu hình và vô hình mỗi mỗi đều có cái tướng thật thể hữu hình hoặc khái niệm vô hình (có thể dùng máy thăm dò) nên Phật giáo gọi là Duy Thức Pháp Tướng Tông. Tông này đặt ra nhiều danh tướng của vạn hữu để giải thích rất tỉ mỉ đủ thứ hiện tượng lăng xăng phức tạp của vũ trụ. Sự giải thích của học thuyết này, so với các giải thích của sinh lý giải phẫu học, tâm lý học, triết học, khoa học tự nhiên v.v… còn trọn vẹn hơn.

    Tám thứ thức trong bát thức mỗi mỗi đều có nhiệm vụ riêng biệt của mỗi thức, phát huy đủ thứ tác dụng gọi là “tâm sở”. Tài liệu tối tân của khoa học kỹ thuật cho biết não bộ chỉ dùng hệ thống thần kinh (lục căn), và nhờ năng lượng của lục căn dùng làm công cụ, để nhận biết hiện tượng của vũ trụ, nghĩa là dùng cái năng tri của não bộ làm chủ thể. Do vậy, tất cả pháp đều được coi là thuộc về đối tượng sở tri của não bộ. Còn những gì mà não bộ không nhận biết được, đều bị phủ định.

    Sự nhận biết của ý thức chẳng thể lìa vật chất mà tồn tại. Nhưng sau khi bát thức chuyển thành tứ trí rồi, thì công năng của nó đã toàn bộ phát ra từ phi vật thể (lìa vật chất). Dù vô hình vô lượng mà đầy đủ tác dụng siêu việt không gian thời gian. Vì vậy, nên khoa học kỹ thuật đã chẳng thể bắt chước để chế tạo thành máy vi tính nữa.

    Nay chiếu theo định luật của Einstein mà suy luận, thì vẫn có thể biết được cái năng lượng phi vật thể. Nếu dùng trí óc mà so sánh cái sức này với năng lượng phát từ vật chất, thì sức này quá bất khả tư nghì, không hợp logic. Nhưng thực tế, sức này lại có sự tướng chính xác, có thể thấy được. Chỉ có điều trí huệ theo kiểu lệ thường xưa nay không có cách để giải thích mà thôi.

    Công năng phát ra từ phi vật thể chẳng bị hạn chế nơi số lượng của không gian và thời gian. Bản thể nó tức là “như hư không vô sở hữu” của chân tâm. Biệt danh của nó rất nhiều, nay vì phương tiện trình bày, tạm gọi là “Diệu Giác”. Bản thể “Diệu Giác” này là thức thứ tám, thức này dung nạp tất cả pháp của vũ trụ, thể “không” chẳng thể thấy lại có công năng thường dùng có thể thấy. Ðây tức là đại vũ trụ thế kỷ 21 của chúng ta muốn sáng tỏ, cũng là cái hiện tượng từ tương đối tiến vào tuyệt đối.

    Cái bản thể đã chẳng thể thấy mà không hợp logic kia cần phải nhờ tâm lực cá nhân của chúng ta sẵn có mới có thể chứng minh:

    Khi chúng ta y theo pháp thiền trực tiếp “Tổ Sư Thiền” do Phật Thích Ca truyền dạy, thực hành đến trình độ N, tức là đạt đến giai đoạn “tự động hóa” được một khoảng thời gian, khiến 3 thứ biết: tìm hiểu, tư duy, ghi nhớ được tạm ngưng, nghĩa là khi bộ não ngưng hoạt động thì phát huy được cái công năng sẵn có, chẳng dùng bộ não mà hoàn thành công tác bộ não chẳng thể làm. Khi ngưng hoạt động của bộ não càng lâu, thì độ thiền càng sâu, cái công năng tự phát ra lại càng lớn.

    Vì muốn sáng tỏ vạn tượng trọn vẹn của đại vũ trụ tỉ mỉ hơn (gồm vật chất và siêu vật chất), chúng ta cần phải căn cứ theo lực học quán của Ðức Phật, đem Ngũ Pháp, Tam Tự Tánh, Bát Thức, Nhị Vô Ngã để giải thích sau đây:

    I. Ngũ Pháp

    Ngũ Pháp gồm tướng, danh, phân biệt, chánh trí, như như. Nay lược giải như sau:

    1. Tướng: Phàm là vật thể hữu hình mỗi mỗi đều có sự cao thấp, dài ngắn, lớn nhỏ, màu sắc, chất lượng. Luôn cả những khái niệm vô hình như ảo tượng của sự tưởng tượng dựa theo vật thể hữu hình cũng vậy. Cả hai thứ hữu hình và vô hình đều gọi là “tướng”.

    2. Danh: Y theo tướng hữu hình và vô hình mà lập ra tên gọi, gọi là “danh”.

    3. Phân biệt: Ðối với danh-tướng kể trên, trải qua sự tư duy phân tích để nhận thức sự thật giả, tốt xấu, giá trị, chất lượng, thị phi, tà chánh, v.v…, gọi là “phân biệt”.

    4. Chánh trí: Trí thức chẳng nhờ tác dụng của bộ não mà do công năng tự động của trí Bát Nhã tự hiện, là vốn sẵn có của Diệu Giác (bộ não chẳng thể biết được), là có sự thật tồn tại khách quan. Cái trí huệ chẳng cần tác ý của bộ não mà tự hiện này là trí huệ chẳng bị không gian và thời gian hạn chế, gọi là “chánh trí”.

    5. Như như: Do nơi chánh trí tự động phát huy, chẳng kể ngày đêm, cổ kim, luôn luôn như bổn lai thực tế từ vô thỉ đã sẵn có, chẳng có tương đối, siêu việt biện chứng của logic, gọi là “như như”.

    Gọi chung là Ngũ Pháp.

    II. Tam Tự Tánh

    Tam Tự Tánh có hai loại, loại A gồm thiện, ác, vô ký. Loại B gồm biến kế sở chấp, y tha khởi, và viên thành thật.

    Loại A:

    1. Tánh thiện: Là tánh của những việc làm có lợi ích cho bản thân hoặc người khác nơi hiện tại và vị lai. Tánh thiện tin tưởng tâm thiện này là do chủng tử thiện căn sở tạo, tất cả việc thiện cũng gọi là thiện nghiệp.

    2. Tánh ác: Là tánh của mọi ác nghiệp, do các tâm tham dục sanh khởi, vi phạm tổn hại đến mình hoặc người khác nơi hiện tại và vị lai. Những việc mang tánh ác này cũng gọi là ác nghiệp.

    3. Tánh vô ký: Là pháp phi thiện, phi ác, chẳng có chút niệm nào dính mắc sự lợi ích hay tổn hại, chẳng thể tính toán hay phân biệt. Theo duy thức, có hai thứ vô ký: Vô ký có che lấp, vô ký chẳng che lấp.

    A. Vô ký có che lấp: Tự thể nó có tánh chấp trước rất yếu để che lấp Thánh đạo. Như trường hợp thức thứ bảy luôn luôn chấp thức thứ tám là ta. Dù chẳng có sức để trực tiếp lợi ích hoặc tổn hại mình và người, nhưng có cái tự thể chấp trước. Sự vật nào đồng như tánh này đều thuộc về vô ký có che lấp.

    B. Vô ký chẳng che lấp: Tự thể nó chẳng có tánh chấp trước, nhưng tự tánh rất yếu, chẳng có chút sức nào để lợi ích hoặc tổn hại mình và người, như thức thứ tám. Phàm có tánh đồng với loại này đều thuộc về vô ký chẳng che lấp.

    Hai tánh kể trên gọi chung là tánh vô ký.

    Loại B:

    1. Tánh biến kế sở chấp: Do tập khí vọng tưởng của phàm phu có tánh chấp thật đối với sự vật, chấp trước so đo tất cả pháp, gọi là biến kế. Vì vọng tưởng biến kế của mê chấp, chấp tất cả sự vật có tánh thật hữu hoặc thật vô. Như thấy sợi dây cho là con rắn. Nhưng thật ra thì chẳng có bản thể của rắn. Chỉ do vọng tình mê chấp nhận lầm là rắn mà thôi. Nên gọi là “biến kế sở chấp”.

    2. Tánh y tha khởi: Là y theo nhân duyên mà sanh khởi tất cả vạn pháp. Chữ “tha” ở đây được dùng để chỉ nhân duyên, do chủng tử của thức thứ tám làm nhân đầu tiên. Ðồng thời nhờ đủ thứ trợ duyên của những cái khác mà sanh khởi các tướng, lìa vọng tưởng mà tự tồn tại. Bản thể của sợi dây là do chỉ bố, công cụ, nhân công làm duyên mà sanh khởi. Nên gọi là tánh “y tha khởi”.

    3. Tánh viên thành thật: Nghĩa là có cái tánh thành tựu viên mãn chân thật, cũng gọi là pháp tánh. Tức là thể tánh của tất cả pháp vô vi. Pháp tánh này có hai nghĩa: Về pháp tánh tùy duyên là tánh “y tha khởi”, thuộc thật nghĩa của đại thừa. Hoặc nói pháp tánh là “sở y”, do tánh y tha khởi mà kiến lập, thuộc phương tiện tùy nghi của nghĩa đại thừa.

    Nói tóm lại, mọi sự vật đều có đủ ba tánh này. Như đối với quá khứ, vị lai, lông rùa, sừng thỏ, cho là thật hoặc chẳng thật; thì thuộc về tánh biến kế sở chấp; pháp hữu vi thuộc tánh y tha khởi; pháp vô vi thuộc tánh viên thành thật. Ví như một nhánh hoa, do vọng tưởng mê chấp cho là có tánh hoa thật tại, là tánh biến kế sở chấp; biết rõ tướng hoa là do nhân duyên sanh khởi biến hiện, là tánh y tha khởi; giác ngộ được thực tế của tướng hoa, lìa tánh và phi tánh, ấy gọi là tánh viên thành thực vậy.

    Bát thức:

    Bát thức gồm tiền ngũ thức (nhãn nhĩ tỉ thiệt thân), thức thứ sáu là ý thức, thức thứ bảy là mạt na thức, thức thứ tám là a lại da thức. Cộng chung là tám thứ thức. Nay giải thích như sau:

    Bộ não nhận biết cảnh vật thông thường gồm có tam lượng (hiện lượng, tỉ lượng, phi lượng) là năng lượng vật chất. Tiền ngũ thức dù thông tam tánh mà chẳng thể phân biệt tam tánh, nên thuộc về hiện lượng tánh vô ký là tánh cố định. Thức thứ sáu thì có tánh khả biến thuộc tỉ lượng, phi lượng.

    Hiện lượng như trước mắt thấy mưa, tỉ lượng như sáng thức dậy thấy sân trước sân sau đều thấm ướt thì suy biết đêm qua có mưa; phi lượng như thấy mặt đất bị nước ướt, tưởng là đêm qua có mưa, sự thật thì chẳng có mưa.

    Tiền ngũ thức chẳng thể hợp tác với nhau. Mỗi thức chỉ có thể kết hợp với cảnh trần riêng biệt của mỗi thức. Còn thức thứ sáu thì có thể hợp tác với bất cứ thức nào và sự nhận thức của nó thuộc tánh khả biến.

    Ngũ căn chỉ có thể nhận thức về cảm giác. Còn ngũ thức thì, qua sự cảm giác của ngũ căn, sanh khởi phân biệt. Riêng thức thứ sáu thì có tác dụng về tư duy và liễu ngộ. Cũng như nhãn căn có năng lực về thị giác, nhưng chỉ có thể chiếu soi cảnh trần mà chẳng thể phân biệt. Còn nhãn thức qua thị giác thì có tác dụng nhận thức phân biệt (thuộc tánh cố định). Ý căn chỉ có năng lực tư duy, còn ý thức thì qua sự tư duy, rồi sanh tác dụng nhận thức phân biệt (thuộc tánh khả biến). Nói tóm lại, lục căn có thể giúp cho lục thức sanh khởi sự phân biệt cao độ vậy.

    Kinh Pháp Bảo Ðàn, phân biệt lục căn với lục thức, có nói: “Sắc thân (thân thể) của người thế gian là thành. Lục căn là cửa. Ngoài có năm cửa (tức ngũ căn nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân). Trong có cửa ý (tức ý căn). Lúc sáu thức ra sáu cửa (tức lục căn), nếu ở nơi lục trần mà chẳng tạp, chẳng nhiễm thì tới lui tự do, ứng dụng chẳng ngại, tức là Bát Nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là vô niệm hạnh.

    Muốn thuyết minh tình trạng luân hồi của nhân loại, nên nhờ câu tụng của Huyền Trang Ðại Sư để chứng minh:

    Bát thức qui củ tụng có câu “Khứ hậu lai tiên tác chủ công”. Hấp lực tỏa ra do cộng nghiệp của mình và cha mẹ khi cha mẹ giao hợp, khiến thức thứ tám đến trước nhất (lai tiên). Khi chết, thức này rời nhục thân sau cùng (khứ hậu). Do tánh chấp ngã của thức thứ bảy kết hợp với sinh lý của cơ thể, mà làm chủ nhân nơi thân này. Ðồng thời do tinh cha trứng mẹ kết hợp hình thành thai nhi, nhờ bát thức làm cơ nhân (DNA) mà dần dần hình thành hệ thống thần kinh của bộ não, đồng thời cùng khắp các tế bào và lục phủ ngũ tạng của toàn thân, do bộ não làm thủ tướng. Do sự lôi kéo của ngã chấp, khiến lục thức với lục căn hợp tác mà nghe theo lệnh của bộ não. Nhưng mà, lục căn thuộc về sắc pháp (thể vật chất), lục thức thuộc về tâm pháp (thể tinh thần), căn có thể hoại diệt, thức thì chẳng thể hoại diệt. Nếu tu hành đến kiến tánh thì chuyển được bát thức thành tứ trí mà ra khỏi luân hồi, chấm dứt sự sanh tử, dứt hẳn sự đầu thai chuyển thế, tự do tự tại vĩnh viễn, chẳng còn tạo nghiệp và bị nghiệp lực trói buộc.

    Về chuyển thức thành trí trong kinh Pháp Bảo Ðàn có tám câu kệ:

    Ðại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
    Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh,
    Diệu quan sát trí chẳng tác ý.
    (Sự thấy của diệu quan sát trí chẳng cần tác ý)
    Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
    Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển,
    Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh.
    Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc,
    Ở chỗ náo động cũng đại định.

    Lược giải:

    1. “Ðại viên cảnh trí tánh thanh tịnh”

    Thức thứ tám chuyển thành trí như gương tròn chiếu soi, phổ chiếu vạn pháp là trí vốn thanh tịnh của bản tánh.

    2. “Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh”

    Thức thứ bảy chấp thức thứ tám là ta (thức thứ tám là bản thể của tất cả pháp) thành bệnh ô nhiễm, nay chuyển thành “bình đẳng tánh trí”, ảnh hưởng thức thứ sáu chẳng khởi phân biệt tưởng thì tâm chẳng bệnh.

    3. “Diệu quan sát trí chẳng tác ý”

    Do sự chấp ngã của thức thứ bảy khiến thức thứ sáu sanh khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành Diệu Quan Sát trí rồi, dù thấy mà chẳng có tác ý phân biệt, nên gọi là chẳng tác ý.

     “Thành sở tác trí đồng viên cảnh”

    Tiền ngũ thức duyên theo sự lãnh đạo của thức thứ sáu mà khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành “thành sở tác trí” rồi, tức đồng như “đại viên cảnh trí”, dù dùng mà chẳng tác ý phân biệt.

     “Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển”

    Lục và thất là trong nhân chuyển (thức thứ sáu là nhân tiệm tu, thuộc giáo môn; thức thứ bảy là nhân đốn ngộ, thuộc thiền môn), ngũ và bát là trên quả chuyển, vì hễ vọng chấp của thức thứ bảy chuyển, thì ngũ và bát cũng chuyển theo.

     “Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh”

    Tám thứ thức kể trên chuyển thành tứ trí chỉ là tên gọi, chẳng có tánh thực, nghĩa là chỉ chuyển cái tên mà chẳng phải chuyển cái thể vậy.

     “Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc”

    Nếu ở nơi chuyển mà chẳng chấp trước (chẳng chấp thật).

     “Ở chỗ náo động cũng đại định”

    Bất cứ ở chỗ hoàn cảnh náo động cách mấy cũng đều là đại định (chẳng có nhập định xuất định, vĩnh viễn ở trong định).

    Nhị vô ngã

    1. Nhân vô ngã:

    Người thế gian, do khuynh hướng chấp thật cái nhục thân do cha mẹ sanh, thường cho rằng có một chúa tể là “nhân ngã”. Vì muốn thỏa mãn dục vọng của thân này nên người đời bày ra muôn ngàn mưu toan để tổn người lợi mình, ích kỷ hại tha, thậm chí giết hại người thân, nhiễu loạn trật tự xã hội, do đó tất cả phiền não liền từ ngã chấp này mà sanh. Nếu quan sát tỉ mỉ, chúng ta biết thân này chỉ do sắc, thọ, tưởng, hành, thức ngũ uẩn hòa hợp, mới có cái tác dụng kiến văn giác tri. Nhưng tác dụng này còn phải chịu sự hạn chế của không gian và thời gian, sát na chẳng trụ, rốt cuộc sẽ biến mất, chứ làm gì có cái tự ngã chân thật để làm chúa tể cái tự ngã của thân này. Vì nếu thật được làm chúa tể thì phải chắc chắn vĩnh viễn không bị biến diệt. Song sự thật thì trong cuộc đời này, có chúa tể nào thoát được già bệnh chết .v… Do đó chứng minh được rằng chẳng thể thành lập tự ngã. Nên gọi là “nhân vô ngã”.

    2. Pháp vô ngã:

    Theo đoạn trên đã chứng minh thân người vô ngã, thì tất cả các pháp trong vũ trụ do thân này nhận biết được, đương nhiên cũng chẳng thể thành lập. Bởi vì phải có “người” trước, rồi mới có tất cả pháp do “người” này nhận biết. Nay đã biết “nhân ngã” chẳng thể thành lập, thì cái “pháp ngã” do “nhân ngã” biết được ắt cũng chẳng thể thành lập, do đó được ngộ “nhân vô thì pháp vô”. Ấy nên gọi là “pháp vô ngã”.

    Cả hai thứ nhân vô ngã, pháp vô ngã này, gọi chung là “nhị vô ngã”.

    Kết Luận

    Muốn kiến lập lý luận từ tương đối đến tuyệt đối, trước tiên phải bắt đầu từ lực học của Newton đến lực học của Einstein. Nếu giả thuyết tốc độ vận động của vật chất từ số 0 đến 100, thì Newton từ 0 đến 50, thuộc thuận hành tánh bất biến; còn Einstein thì từ 0 đến 50, rồi lại tiến thêm từ 50 đến 100, thuộc tánh khả biến và chuyển đổi lẫn nhau; còn lực học của Thích Ca Mâu Ni chẳng những từ 0 đến 100, lại từ 100 đến 200, đến 300 v.v… cho đến vô cùng tận.

    Tóm lại, quan điểm của nhà khoa học chỉ có khả năng quan sát những sự vật tương đối trong vũ trụ. Vì vạn sự vạn vật đều chẳng thể mỗi mỗi tự độc lập, cần phải nhờ nhân duyên tương đối mà thành: Như gà sanh trứng, trứng sanh gà. Như âm dương tương đối, hút đẩy tương đối, đồng tánh thì chống nhau, khác tánh thì hút nhau, khi hấp lực lớn đến mức độ “N” thì tốc độ ánh sáng có thể bị hấp lực nuốt mất.

    Vạn vật trong vũ trụ hoại nhau mà giúp nhau, và ăn nuốt lẫn nhau, đã thống nhất, lại mâu thuẫn, biến hóa chẳng định, lại chẳng thể tăng giảm. Như nước có thể diệt lửa, nhưng nếu đem nước phân tích thành hai thứ khí thể H, O, thì lại trở thành lửa, H có thể tự cháy, O có thể giúp cho sự cháy. Dù hoại nhau, thành nhau, mà cùng tồn tại bất diệt. Chúng ta ở trong hoàn cảnh vạn tượng xum la lăng xăng, phức tạp, nhiễu loạn chẳng ngừng này, mỗi mỗi vì dục vọng của bản thân mà cạnh tranh lẫn nhau, từ đao kiếm súng ống, chiến tranh kinh tế, từ chiến tranh lạnh đến chiến tranh nóng, và từ chiến tranh nóng qua chiến tranh lạnh; từ chiến tranh cá nhân với cá nhân, cho đến chiến tranh quần thể với quần thể. Thiên tai nhân họa, tranh nhau mà đến. Xưa kia còn tưởng thiên tai là việc không thể đối phó được, nhưng hiện nay mới phát hiện thiên tai cũng là do nhân họa tạo thành.

    Chúng ta ở trong hoàn cảnh thiên tai nhân họa tranh nhau ùn đến chẳng ngừng này, đâu thể hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc? Tại sao con người một mặt tạo ra tai nạn, một mặt thì kêu gọi đóng góp để cứu nạn, thực là mâu thuẫn tức cười. Cho nên Ðức Phật nói “Tất cả do tâm tạo” là vậy.

    Nếu chúng ta chịu nương theo sự chỉ dạy của Ðức Phật về phương cách cuộc sống để sống, thì hạnh phúc ở nơi trước mắt, chớ chẳng cần tìm cầu. Nói một cách khác, tức là “vô vi mà vô sở bất vi”. Nói vô vi, chỉ là giữ tâm này chẳng sanh khởi hai chữ “cho là” (chấp thật) mà thôi. Việc này dù xem rất đơn giản, nhưng thật tại thì khó làm được. Ðó là vì tập khí của chúng ta, lúc đối cảnh ắt phải khởi tâm động niệm, nhất định phải dùng “cho là” để lạc vào tương đối, rồi từ đó thị phi tốt xấu ùn lên, và phiền não cũng theo đó mà đến. Lực học của Thích Ca Mâu Ni chỉ là như thế như thế:

    Ðã vì đói khát mà ăn uống thì cứ ăn uống, chẳng nghĩ cái khác; đã vì che thân chống lạnh mà mặc áo thì cứ mặc áo, chẳng nghĩ cái khác, mỗi mỗi chức nghiệp đều giữ đúng vị trí của nó, chẳng nghĩ cái khác. Vậy thì, cha giữ đúng vai trò của cha, mẹ giữ đúng vai trò của mẹ; con cái giữ đúng vai trò của con cái; chồng giữ đúng vai trò của chồng, vợ giữ đúng vai trò của vợ v.v… tất cả mỗi mỗi đều giữ đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận, an cư lạc nghiệp, thì tự nhiên mọi người đều được an lạc hạnh phúc, thiên hạ thái bình.

    Ghi chú:

    Vai trò: Nghĩa là tùy theo truyền thống xưa nay của mọi dân tộc và nhà nước, phong tục, tập quán pháp luật khác nhau thì vai trò cũng theo đó khác nhau, như truyền thống Việt Nam, Trung Quốc, truyền thống Mỹ v.v… mỗi mỗi đều khác nhau là vậy v.v…


    Hết
    http://duylucthien.wordpress.com/201...k%E1%BB%B7-21/

  10. Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới abc

    lê chí công (29-09-2014)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •