Kết quả 1 đến 1 của 1
  1. #1
    Ngày tham gia
    Aug 2010
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    62
    Cảm ơn!
    2,898
    Thanked 1,262 Times in 57 Posts

    Mặc định Phiêu kỵ đại tướng quân : Trần Khánh Dư

    “Trần Khánh Dư người huyện Chí Linh, Hải Dương, con trai của Thượng tướng quân Trần Phó Duyệt. Ông được phong tước Nhân Huệ Vương.
    Lúc giặc Nguyên vào cướp phá lần đầu ông thường bất ngờ cho quân đánh úp nên được vua Trần Thánh Tông nhận làm con nuôi. Sau ông đánh quân Man quấy nhiễu vùng núi, đại thắng nên vua ban chức Phiêu kỵ tướng quân. Vua yêu mến phong chức đến mấy lần, phong tước Thượng Vị hầu, mặc áo tía. Ông được làm con nuôi vua (Thiên tử nghĩa nam) được ra vào cung điện như các hoàng tử khác. Ông được ban yến tiệc trong cung, nên được gặp gỡ Thiên Thụy công chúa con vua Trần Thánh Tông là bậc giai nhân đẹp tuyệt vời của nhà Trần. Nhiều vương tôn công tử muốn được xe duyên cùng công chúa nhưng Trần Quốc Nghiễn (Hưng Vũ Vương) con trai Trần Hưng Đạo đã được làm phò mã nhà vua”.
    Người xưa thường kiêng kỵ việc thông gia kép nhưng Vua Trần Thánh Tông đã gả Trịnh quận chúa con Trần Hưng Đạo cho con trai mình là Trần Nhân Tông. Vua lại gả con gái mình cho con trai của Trần Hưng Đạo để tình thông gia thân lại càng thân. Nào ngờ nàng công chúa diễm lệ Thiên Thụy đã làm vợ Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn rồi mà vẫn đem lòng yêu dấu ông anh nuôi của mình là Trần Khánh Dư. Thế là vụ án bi thảm xảy ra: Vua cha phần vì giận con nuôi và con gái làm ô nhục gia đình, phần vì mất lòng Trần Hưng Đạo, nên Trần Thánh Tông đã cách hết chức con nuôi, tịch thu hết tài sản và trừng phạt Trần Khánh Dư bên cạnh Hồ Tây. Giữa thanh thiên bạch nhật dân chúng được biết pháp luật nghiêm minh của nhà Trần như thế nào. Vua tuyên án tử hình Trần Khánh Dư, sai quân lính dùng roi đánh kẻ phạm tội đến chết.
    Nhưng ngoài thì là lý trong là tình- vua Trần Thánh Tông bí mật dặn người lính giả vờ giơ roi thật cao, đánh thật nhẹ, đợi đêm khuya cho kẻ phạm tội trốn đi. Trời tối, dân chúng xem xử tội đã về hết. Trần Khánh Dư lủi thủi trốn về Chí Linh trong hoàn cảnh tài sản đã bị tịch thu hết sạch. Ông đành làm nghề bán củi sống qua ngày. Chúng ta cùng đọc bài thơ “Bán than” của ông, và sẽ thấy rõ rằng “máu thì chảy từ huyết quản còn nước lạnh thì chảy từ dòng suối”. Tấm lòng của Trần Khánh Dư trong bài thơ chân thành đến cảm động:
    ”Một gánh kiền khôn quẩy xuống ngàn.
    Hỏi rằng “Chi đó” Gửi rằng “Than”
    Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt.
    Hơn thiệt nào bao gốc củi tàn!
    Ở với lửa hương cho vẹn kiếp…
    Thử xem đá sắt có bền gan.
    Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác.
    Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn”.
    Trần Khánh Dư không cho rằng mình đau khổ là do kiếp trước vụng đường tu như suy nghĩ của một số quý tộc đời Lý, Trần sùng đạo Phật. Ông giải thích theo Kinh dịch: “Con người sinh ra ở đời trong cõi Kiền- Khôn (Trời Đất). Đầy trong khoảng trời đất là vạn vật, tiếp tới quẻ Truân (gian nan). Ông cho rằng đã đứng trong trời đất là phải chịu truân chuyên…Hai câu: “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp/ Thử xem đá sắt có bền gan”- có phải chăng là tâm tình kín đáo ông gửi cho Thiên Thụy đấy chăng.
    Ông cũng tự biết mình bị lem luốc rồi, ông làm nghề than nhọ nhem như tấm thân đã bị danh dự hoen ố. Dầu thân bại, danh liệt ông vẫn dũng cảm chịu điều tiếng tiếp tục sống ở đời, lo cuộc sống cho mình và cho bao người khác. Tiết đông lạnh lẽo dân chúng rét mướt chắc cũng cần than củi sưởi ấm nhân tình. Cũng như ông có tài đánh trận thì chắc là đất nước cũng có khi cần ông đến cứu dân. Tình yêu cuộc sống đã đốt lên trong lòng ông chút hy vọng. Ngọn lửa can trường đó được chính Trần Hưng Đạo thổi bùng lên.

    Một ngày tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282), Khánh Dư chở thuyền qua bến Bình Than, nhà vua trông thấy, trỏ vào thuyền bảo quan thị thần rằng: "Người kia có phải là Nhân Huệ vương không". Rồi lập tức sai người chở thuyền nhỏ đuổi theo. Người quân hiệu gọi: "Ông lái kia, vua sai đòi nhà ngươi". Khánh Dư nói: "Ông già là người buôn bán, có việc gì mà gọi đến". Quân hiệu về tâu thực như thế. Vua nói: "Đúng là Nhân Huệ vương rồi, nếu là người thường tất không dám nói thế". Vua lại sai đi gọi. Khánh Dư đến nơi, mặc áo ngắn, đội nón lá. Vua nói: "Nam nhi cực khổ đến thế là cùng". Vua xuống chiếu tha tội, ban cho áo ngự, vị thứ ngồi dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc đánh giặc. Ông có nhiều kế hay, đúng ý vua. Nhà vua cho phục chức cũ, lại phong làm Phó tướng quân.
    Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba (1288), ông làm Phó tướng giữ Vân Đồn. Khi cánh quân thủy của bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đến Vân Đồn, ông đem quân chặn đánh, không cản được giặc. Thượng hoàng nghe tin, sai bắt về kinh xử tội. Ông bảo với sứ rằng "lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội, nhưng xin hoãn vài ngày để tôi lập công chuộc tội, rồi sẽ chịu búa rìu cũng chưa muộn". Theo dự đoán của ông, quả nhiên mấy ngày sau, Trương Văn Hổ dẫn hơn 100 thuyền chở lương kéo đến. Ông đánh bắt sống được nhiều tù binh và lương thực khí giới không kể xiết. Quân Nguyên nghe tin mất hết lương thực, chỉ lo việc rút về, không còn chí chiến đấu nữa.
    Trong số những quý tộc nhà Trần, Trần Khánh Dư là người không chỉ giỏi võ nghệ, lắm mưu lược, lập công lớn về quân sự mà ông còn có đầu óc thực tiễn, biết kinh doanh thương mại. Suốt thời gian bị bãi chức, ông về đất cũ của cha mình ở Chí Linh, làm nghề buôn than để sống. Tác giả các bộ sử cũ với quan điểm kinh tế truyền thống của phong kiến là trọng nghề gốc (nông nghiệp), khinh nghề ngọn (buôn bán) nên coi việc ông buôn than, bán nón là nghề "hèn mọn". Nhưng thực ra, ở thời Trần chưa hề có chính sách trọng nông ức thương, chưa hề có việc bao vây cấm đoán ngoại thương. Chính Trần Khánh Dư là người sớm thấy nguồn lợi lớn trong việc buôn bán.
    Ông là vị tướng giỏi và cũng là người biết làm kinh tế. Khi là dân thường cũng như lúc làm tướng, ông đều tham gia hoạt động kinh doanh lưu thông hàng hóa. Đấy là điểm tiến bộ ở ông, một biểu hiện mới trong tầng lớp quan liêu vốn chỉ quen sống bám vào đặc quyền đặc lợi của mình, khinh thường lao động sản xuất và kinh doanh buôn bán.
    Trần Hưng Đạo mời ông bán than viết cho mình lời tựa trên đầu cuốn “Vạn kiếp bí truyền thư”, là cuốn sách sưu tập về binh pháp có vẽ bát quái cửu cung. Lời tựa Trần Khánh Dư viết đầu cuốn sách dạy về phép đánh trận của Trần Hưng Đạo thật là tuyệt diệu: “Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận. Người giỏi bày trận thì không cần phải đánh. Người giỏi đánh thì không thua. Người giỏi, thua thì không chết”.
    Sưu tầm nguồn : Internet
    Lần sửa cuối bởi kiencuong304, ngày 20-06-2013 lúc 15:09. Lý do: chính tả

  2. 14 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới kiencuong304

    Hoan (20-06-2013),Hua Toan (19-06-2013),Lobbyvietnam (18-06-2013),nhanhuy (18-06-2013),thanhphong (01-09-2014),tiendung23680 (19-06-2013),Trần Kim Cương (24-07-2015),trungthanh (11-01-2015),turaunt (18-06-2013),Đại Minh (17-06-2013)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •