Kết quả 1 đến 1 của 1
  1. #1
    Ngày tham gia
    Mar 2011
    Bài viết
    200
    Cảm ơn!
    6,806
    Thanked 4,693 Times in 194 Posts

    Mặc định Theo Thầy về Long Động Cổ Trai - Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi

    Long Động Cổ Trai
    Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi

    Mặc dù năm nào Thầy Nguyệt Quang Tử cũng tổ chức cho học trò và những người yêu Khí công tâm linh đi lên linh địa Côn Sơn để học tập tu luyện và nghỉ ngơi. Nhưng chuyến đi Côn Sơn lần này nhân dịp nghỉ 30/04 là chuyến đi hết sức đặc biệt không chỉ đối với những học trò mà cả những người yêu Khí công tâm linh. Chuyến đi này đặc biệt bởi tất cả đoàn với 130 người trong đó có 22 cháu bé được theo thầy Nguyệt Quang Tử về Bát Cổ là để mọi người thăm quan các di tích lịch sử, được thầy NQT giới thiệu về lịch sử của từng vị trí trong Bát Cổ, vừa là được học tập tu luyện, vừa là được thầy NQT và bề trên khai tâm mở huệ chữa bệnh cho. Đồng thời hiểu hơn những tháng năm Thầy vất vả tìm về Bát Cổ.
    Theo kế hoạch của Ban tổ chức thì sáng ngày 28/04/2013 tất cả đoàn được theo Thầy NQT về Long Động Cổ Trai – Nơi đây là đền thờ Lưỡng Quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Đây là điểm đến thứ 5 trong Bát Cổ. Tất cả đoàn bắt đầu xuất phát lúc 7h40’ từ khách sạn gần hồ Côn Sơn về tới thôn Long Động – xã Thanh Quang – huyện Chí Linh – tỉnh Hải Dương lúc 8h20’. Đây là di tích lịch sử cấp quốc gia đang trong thời gian được nhân dân và chính quyền tu tạo theo qui hoạch của nhà nước.

    [IMG][/IMG]
    ( Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi)
    [IMG][/IMG]

    Tại sân đền thờ Cụ Mạc Đĩnh Chi mọi người ngồi quây quần xung quanh Thầy nghe thầy giới thiệu về điểm đến thứ 5: Long Động Cổ Trai trong Bát Cổ. Nghe Thầy kể về Cụ Mạc Đĩnh Chi đồng thời được nghe Thầy kể về những lần Thầy về dâng hương tại đền Cụ và được gặp Cụ.
    [IMG][/IMG]
    ( Mọi người ngồi nghe Thầy NQT giới thiệu về Long Động Cổ Trai)
    [IMG][/IMG]

    ***Theo tài liệu lịch sử:
    Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, Chí Linh. Từ nhỏ đã có tướng mạo xấu xí nhưng tư chất thông minh, lại chăm chỉ học hành, có tài ứng đối mau lẹ.
    Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (năm 1304), ông đi thi đỗ Trạng Nguyên. Nhà vua cho vời vào cung để ban áo mão cân đai, nhìn thấy Tân Trạng chỉ là một chàng trai có vóc người nhỏ thấp, tướng mạo xấu xí, vua Anh Tông có ý không muốn dùng. Ông bèn dâng bài “Ngọc Tinh Liên Phú” (bài phú: Sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Vua xem xong bài phú, từng câu, từng chữ như khiến Người bừng tỉnh và thốt lên: “Mạc Trạng Nguyên quả là bậc thiên tài, có tiết tháo”.
    Quan Trạng rất được lòng dân bởi đức tính thanh liêm, về sau làm đến chức Tả Bộc Xạ (Thượng Thư).
    Mạc Đĩnh Chi là người rất liêm khiết, thẳng thắn, được tiền không lấy làm của riêng, giàu sang phú quý đối với ông không có ý nghĩa gì, cho nên được người đời ca tụng.

    Một lần, vào năm 1323, vua Trần Minh Tông cho gọi viên quan nội thị đến nói nhỏ:
    - Nghe nói các quan và dân chúng đều xem Mạc Đĩnh Chi là người liêm khiết, thẳng thắn lắm. Trẫm định thử xem có đúng như thế chăng?
    Nói đoạn, vua Minh Tông lấy 10 quan tiền đặt vào tay viên quan nội thị, rồi ghé sát tai thì thầm to nhỏ. Viên quan nội thị tâu:
    - Thần sẽ làm đúng như ý bệ hạ sai bảo.
    Sáng ấy, Mạc Đĩnh Chi dậy sớm hơn thường lệ. Trời còn chưa sáng rõ, ông đã tập xong hai bài quyền. Ông vươn người hít thở không khí trong lành của buổi sớm ban mai. Xong công việc thường lệ, ông lững thững vào nhà. Vừa bước lên bậc cửa, bỗng ông kêu lên kinh ngạc:
    - Ô kìa! Tiền của ai đánh rơi mà nhiều thế kia?
    Ông nhặt lên đếm, vừa tròn 10 quan. Ông thầm nghĩ: “Quái ! Đêm qua không có ai lại chơi, sao có tiền rơi?”. Ông vội vã khăn áo chỉnh tề, vào yết kiến nhà vua:
    - Tâu bệ hạ, thần sáng nay có bắt được 10 quan tiền ở trước cửa nhà, hỏi khắp cả mà không ai nhận, thần xin trao lại để bệ hạ trả lại kẻ mất của:
    Vua Minh Tông mỉm cười gật đầu:
    - Không ai nhận tiền ấy thì ngươi cứ lấy mà dùng…
    - Thưa bệ hạ, tiền này không ít, người mất của chắc xót xa lắm, nên tìm người trả lại thì hơn.
    - Nhà ngươi yên tâm, cứ giữ lấy mà dùng. Tiền thưởng lòng chính trực, liêm khiết của nhà ngươi đấy.
    Mạc Đĩnh Chi bấy giờ mới vỡ lẽ ra là nhà vua đã thử lòng ông, Ông chào tạ ơn rồi trở về.

    Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi nhận chiếu chỉ của vua Anh Tông đi sứ nhà Nguyên – Trung Quốc. Dạo ấy vào đầu mùa hạ, tuy trời ít mưa, nhưng đã mưa thì mưa như đổ nước từ trên trời xuống; đường xá, đồng ruộng, nước trắng băng một màu, việc đi lại gặp trở ngại lớn. Chính vì vậy mà đoàn sứ bộ đến quan ải chậm mất hai ngày. Quan coi ải một mực không cho qua. Mạc Đĩnh Chi bực lắm, toan quay trở về nhưng nghĩ đến mệnh vua mà mình gánh vác chưa trọn nên nán lại xin quan ải mở cửa cho đi. Ngẫm nghĩ hồi lâu, Phong Lũy là viên quan coi ải nói:
    - Nghe nói ngài có tài văn chương, tài ấy sao không sử dụng lúc này ? Bây giờ tôi ra vế câu đối, nêú đối thông suốt, sẽ mở cửa ải: bằng không, xin mời ngài quay lại.
    Yên lặng giây lát, viên quan nọ hí hửng ra vế đối:
    - Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.
    (Đến cửa ải chậm, cửa ải đóng, mời khách đi qua cửa ải)
    Không cần suy nghĩ lâu, Mạc Đĩnh Chi đối ngay:
    - Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh đối.
    (Ra đối thì dễ, đối lại thì khó, mời tiên sinh đối trước).
    Quan coi ải vái ông hai vái, tỏ ý phục tài, rồi mở cửa cho đi.

    Khi Cụ Mạc Đĩnh Chi vào yết kiến vua Nguyên. Thấy ông là người thấp bé xấu xí tỏ ý khinh thường coi ông như loài vật. Họ ra vế đối:
    - An khứ nữ rỹ thỉ vi gia
    (Chữ an bỏ chữ nữ ra và đưa chữ thỉ là lợn vào thành cho vua)
    (Đại ý là họ coi ông xấu xí như lợn, mà đưa vào nhà vua)
    Cụ Mạc Đĩnh Chi đối lại:
    - Tù xuất nhân nhập thành quốc
    (Chữ tù đưa chữ nhân ra, và đưa vương vào Thành chữ quốc)
    (Đại ý: Người ở trong tù đưa ra thì họ cũng làm được vua một nước)

    Cụ Mạc Đĩnh Chi ở sứ nhà Nguyên có lần vào yết kiến. Vua Nguyên họ ra vế câu đối chơi sỏ
    - Lỵ vị vọng lượng tứ tiểu quỷ
    (Đại ý: Người nhà Nguyên thấy ông thấp bé xấu xí nên họ dùng bốn chữ: lỵ, vị, vọng, lượng. Có bốn chữ quỷ đứng bên để chế nhạo ông).
    Cụ Mạc Đĩnh Chi đối lại:
    - Cầm sắt tì bà bát đại vương
    (Vế đối này ông đã khéo chọn tên những cây đàn trong đó có 8 chữ vương. Chẳng những đã khéo tìm chữ đối lại với con số mà lại có ý bảo ta đây là 8 vị đại vương chứ không phải 4 con quỷ nhỏ)

    Trong thời gian ở sứ nhà Nguyên. Nhà Nguyên có ra vế đối như sau:
    - Thiên lý vi trùng, trùng thủy trùng sơn trùng nhật nguyệt
    (Nghĩa là: Việt cách Trung Quốc nghìn dặm, núi sông nước đều giống như Trung Quốc)
    (Nghĩa bóng: Họ gạ nước Việt nhập vào Trung Quốc)
    Cụ Mạc Đĩnh Chi đối lại như sau:
    - Nhất nhân thành đại, đại quân đại quốc đại càn khôn.
    (Nghĩa là: Một người cũng là lớn, có vua lớn, nước lớn có trời đất lớn)
    (Nghĩa bóng: Nước Việt tuy nhỏ nhưng cũng có vua quan, có trời đất riêng không phụ thuộc vào ai)

    Trong thời gian ở sứ nhà Nguyên. Nhà Nguyên có ra vế đối coi thường nước Việt như sau:
    - Hải trung hàm thủy thanh thiên bao nhật nguyệt tinh thần
    (Nghĩa là: Trong bể đựng nước bao bọc trời xanh mặt trời mặt trăng và cả tinh thần)
    (Nghĩa bóng: Đại ý nói Trung Quốc là nước lớn rộng như trời biển bao bọc cả trời xanh mặt trời mặt trăng và cả các vì sao, so nước Việt thì nước Việt nhỏ bé)
    Cụ Mạc Đĩnh Chi đối lại như sau:
    - Hàn thượng phân kim chỉ địa quát đông tây nam bắc
    (Nghĩa là: Trên mâm chia vàng chỉ xuống đất bao quát cả đông tây nam bắc)
    (Nghĩa bóng: Trên một cái mâm chia vàng ai cũng được chia như nhau không cậy lớn mà chia ít cho người khác chỉ xuống đất bao quát thấu suốt được 4 phương đông tây nam bắc). Nói cách khác không thể khinh nước nhỏ mà ăn hiếp được.

    Khi ở sứ nhà Nguyên Trung Quốc, có vợ vua mất. Họ mời Mạc Đĩnh Chi vào tế và mời ông đọc chúc. Khi tới đọc thấy bản văn tế có 4 dòng, mỗi dòng chỉ có một chữ nhất “nhất là một”Ông mỉm cười rồi đọc ngay rằng:
    Thanh thiên nhất đóa vân
    Hồng lá nhất điểm tuyết
    Thượng uyển nhất chi hoa
    Quảng hàn nhất phiến nguyệt
    Dịch: Vân tán tuyết tiêu
    Hoa tàn nguyệt khuyết
    Thiên tử thống tâm
    Muôn dân khấp huyết
    Người nhà Nguyên Trung Quốc kinh ngạc và kính phục bài văn tế của ông và cho chép lại để lưu trữ ở sử sách Trung Quốc.

    Một buổi chiều hè, trời nắng như đổ lửa, đoàn sứ thần của Mạc Đĩnh Chi lúc ấy đi qua một quán nước ven đường. Mạc Đĩnh Chi cho mọi người nghỉ lại. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đon đả chào khách. Cạnh đấy không xa có một giếng khơi, nước trong xanh. Trên thành giếng có viết 5 chữ: “Ngân bình, kiện thượng tị” . Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chậm rãi kể:
    - Xưa có một cô gái bán hàng nước học hành giỏi, chữ nghĩa thông. Gần đây, có một anh học trò muốn ngấp nghé, cứ ngày ngày đi học về, lại vào uống nước tìm lời trêu ghẹo. Một hôm cô hàng nước nói thực với anh:
    - Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa. Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một vế đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây làm gì nữa. Anh học trò bằng lòng. Cô hàng, nhân trông thấy cái ấm tích bằng bạc, mới ra vế đối rằng: “Ngân bình, kiện thượng tị”
    (Bình ngọc, mũi trên vai. Ý nói cái vòi trên cổ ấm).
    Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống giếng đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được.
    Nghe đến đây Mạc Đĩnh Chi cười:
    - Câu ấy dễ thế sao không đối được, mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm, giải oan cho hồn kẻ thư sinh.
    Mạc Đĩnh Chi bèn đọc: “ Kim tỏa, phúc trung tu”
    (Khóa vàng, râu trong bụng. Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa).
    Sau đó Mạc Đĩnh Chi bèn sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh vế đối của cô hàng nước năm xưa. Mọi người đều chịu ông là người đối giỏi.

    Trong buổi yết kiến hoàng đế nhà Nguyên, còn có cả sứ thần Triều Tiên. Vốn nghe danh Trạng Nguyên nước Việt, người xấu xí nhưng ứng đối như thần, vua Nguyên muốn nhân dịp này thử tài hai vị sứ giả.
    Trong lúc đang phân vân thì có người vào triều dâng lên chiếc quạt rất đẹp, vua Nguyên liền bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Với sự nhanh trí kì lạ, ông đề:
    “Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.
    Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di Tề ngã phu.
    Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù”
    Dịch Nghĩa:
    “Chảy vàng, tan đá, trời đất là lò lửa, thì lúc ấy quạt như Y Doãn, Chu Công là những người tài giỏi.
    Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, lúc ấy quạt như Bá Di, Thúc Tề, là những ông già chết đói.
    Ôi! Dũng thì thành đạt, bỏ thì xếp xó. Chỉ có ta và ngươi là thế chăng?”
    Bài của Mạc Đĩnh Chi làm xong trước, ý sắc sảo, văn lại hay thể hiện cái tài và cái tâm của người làm việc lớn. Triều thần nhà Nguyên nhìn nhau trầm trồ thán phục.
    Lần đi sứ ấy, ông thể hiện tài ứng đối và ngoại giao kiệt xuất, trí tuệ uyên bác của người Việt Nam đã được tỏa sáng rực rỡ tại đất nước Trung Quốc, làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính nể, Vua Nguyên phong Mạc Đĩnh Chi là Lưỡng quốc Trạng Nguyên.

    Cuối đời vào năm 1342, Mạc Đĩnh Chi về trí sỹ tại quê nhà mở trường dạy học gần gò Hạc, xã Linh Khuê – nay là xã Thanh Quang. Tại đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở thôn Long Động, xã Thanh Quang, các di tích trên hiện vẫn còn, đang được nhân dân và chính quyền địa phương tu tạo, quy hoạch và đầu tư xây dựng lại.

    *** Được Thầy NQT kể lại:
    Có lần Thầy cùng mấy người theo học khí công về dâng hương tại đền Cụ. Cụ dùng ngón tay búng một cái, có những tia sáng bắn ra bay thẳng vào não bộ từng người. Khi hỏi lại: “Cụ vừa cho chúng con cái gì?” Cụ trả lời: “Đó là tinh tuệ, nó có tác dụng làm cho não minh mẫn hơn.”
    Khi Thầy gặp Cụ được Cụ cho:
    + Rất nhiều sách
    + Một búp măng tre nhỏ, một lọ thuốc nước, một bông hoa dâm bụt
    + Đồng thời Cụ nhận Thầy làm học trò

    Nên khi về Thầy NQT đã làm bài thơ về Long Động Cổ Trai:
    Cổ Trai Long Động sáng lung linh,
    Hoa sen giếng ngọc, tự ví mình.
    Lưỡng quốc trạng nguyên, lừng danh tiếng.
    Tinh tuệ trời Nam được chứng minh.

    Sau khi mọi người được nghe Thầy giới thiệu xong. Sau đó mọi người theo Thầy vào làm lễ trong hậu cung. Thầy cho các cháu bé vào trong hậu cung để xin Cụ ban Tinh Tuệ cho vào não bộ giúp cho các cháu sau này thông minh hơn. Còn lại những người lớn tuổi thì ngồi thiền phía ngoài hậu cung tâm niệm xin Cụ ban cho Tinh Tuệ để cho trí não được minh mẫn hơn.
    [IMG][/IMG]
    ( Các cháu bé vào xin Cụ ban cho Tinh Tuệ )

    Không chỉ các cháu bé được Cụ ban cho Tinh Tuệ mà tất cả những thành viên có mặt hôm đó đã được Cụ ban cho Tinh Tuệ giúp cho trí não minh mẫn hơn, thông minh hơn, sáng suốt hơn…
    Chúng con xin cảm ơn Cụ, cảm ơn Thầy, cảm ơn bề trên đã khai tâm mở huệ chữa bệnh cho chúng con, chúng con xin hứa sẽ cố gắng chăm chỉ học tập tu luyện tốt để trở thành những con người tốt sống có ích với xã hội, đem kiến thức mình đã học giới thiệu đến mọi người.
    Lần sửa cuối bởi ĐINHQUANG HIỆP, ngày 02-05-2013 lúc 09:30.

  2. 21 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới ĐINHQUANG HIỆP

    Diệu Hồng (02-05-2013),Hoan (03-05-2013),kiencuong304 (02-05-2013),lê chí công (10-06-2014),Lobbyvietnam (20-04-2015),Nganpham (31-08-2016),nganuoc (02-05-2013),Ngô Minh Thành (15-02-2022),Phương Nam (02-05-2013),quangdam (02-05-2013),thànhtâm (02-05-2013),Thuanhoang (02-05-2013),tiendung23680 (02-05-2013),trungphong (20-04-2015),turaunt (02-05-2013),TuTam (04-05-2013),Vidieu (02-05-2013),youme (02-05-2013)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •