Kết quả 1 đến 1 của 1
Chủ đề: Sơ lược về cuộc đời cụ nguyễn du
-
16-02-2013, 01:46 #1
Khách
- Ngày tham gia
- Dec 2012
- Bài viết
- 3
- Cảm ơn!
- 196
- Thanked 90 Times in 3 Posts
Sơ lược về cuộc đời cụ nguyễn du
Khi nói tới nền văn học nước ta và các thi sĩ nổi tiếng nhất trong làn văn Việt Nam, người ta không quên nhắc tới tên tuổi Cụ Nguyễn Du, Thơ của Cụ hay ra sao, phong phú thế nào mà người Việt mới dành cho Cụ chỗ đứng cao nhất "Đại Văn Hào" trong làng văn Việt Nam và được văn nhân thế giới mến phục. Cụ là một nhà thơ lớn không chỉ được đề cao trong lịch sử của dân tộc mà còn được ghi vào danh sách danh nhân văn học Thế giới. Cụ đã được tổ chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc "UNESCO" (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Đại Thi Hào Nguyễn Du (1765-1965), đã công nhận Cụ là Danh nhân văn hóa thế giới, vì sự nghiệp vĩ đại mà Cụ đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam. Và khi nhắc tới Cụ Nguyễn Du thì không thể thiếu truyện Kiều. Truyện Kiều một tuyệt tác thi ca, một trong các biểu tượng văn hóa hàng đầu của một quốc gia vẫn tự hào là có "Bốn Ngàn Năm Văn Hiến". Lời phát biểu được coi như “Kim Chỉ Nam” của học giả Phạm Quỳnh, một danh nhân trong làng văn học Việt Nam, Thượng Thư Bộ Lại dưới triều Nguyễn tại Hội Khai Trí Tiến Đức năm 1924 tại Hà Nội: “Truyện Kiều không chỉ đối với văn hóa nước nhà mà đối với văn học thế giới cũng chiếm được một địa vị cao quý... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”.
Ngoài ra trên văn đàn thế giới thì truyện Kiều đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài như: tiếng Anh, Ba Lan, Đức, Hungary, Pháp, Tầu, Nhật, Tiệp Khắc, Tây Ban Nha, v.v…
Truyện Kiều không chỉ đơn giản là áng văn chương mà tác phẩm còn thể hiện một trí tuệ hơn người, sự hiểu biết thông thái sâu rộng của tác giả…
Để hiểu hơn về Cụ Nguyễn Du chúng ta cùng tham khảo Tiểu sử Đại Thi Hào Dân Tộc Nguyễn Du.
Cụ Nguyễn Du sinh năm nào vẫn còn có sự khác biệt trong các tài liệu. Hai năm 1765 và 1766 đã được đề cập tới; nhưng năm nào chính là năm sinh của Cụ?
UNESCO vinh danh Nguyễn Du là “Danh nhân Văn hóa Thế giới" nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh (3.1.1765 - 3.1.1965). Như vậy, UNESCO dựa vào năm sinh 1765 Dương lịch, tài liệu của giáo sư Dương Quảng Hàm, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Huyền Anh đồng nhất về năm Dương lịch. Vậy trong bài này chúng ta chọn ngày 3.1.1765.
Cụ Nguyễn Du sinh ngày 3-1-1765 tại quê mẹ, làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Cụ sinh ra trong một gia đình quý tộc, trong thời loạn lạc, xã hội rối ren nên gia đình ly tán, mồ côi cha mẹ sớm.
Mẹ của Cụ Nguyễn Du là Cụ Trần Thị Tần (1740 - 1778), con gái quan Câu kê họ Trần ở làng Hoa Thiền huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh).
Cha của Cụ Nguyễn Du là Cụ Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là tỉnh Hà Tĩnh).
Tể tướng Nguyễn Nghiễm có tất cả 8 vợ và 21 người con. Tể tướng Nguyễn Nghiễm kết duyên với Trần Thị Tần (mẹ Cụ Nguyễn Du) là vợ thứ 3, sinh được 4 trai, 1 gái, theo thứ tự: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du và Nguyễn Ức.
Cha của Cụ Nguyễn Du đậu Nhị Giáp Tiến Sĩ, làm quan tới chức Đại Tư Đồ, tể Tướng (thủ tướng) dưới triều đại Lê Hiển Tông (1740-1786).. Con trai trưởng của Cụ Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Khản đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm tới chức Tham Tụng đời chúa Trịnh Khải. Con thứ hai là Nguyễn Điều đậu Hương Cống, trấn thủ tỉnh Sơn Tây, được phong tước Điền Nhạc hầu. Con thứ ba là Nguyễn Dao đậu tứ trường thi Hương, chức Hồng lô Tự thừa. Con thứ tư là Nguyễn Luyện đậu tam trường thi Hương. Con thứ năm là Nguyễn Trước và con thứ sáu là Nguyễn Nễ đều đậu tứ trường thi Hương và Cụ Nguyễn Du là con thứ bẩy.
Gia đình Cụ Nguyễn Du một gia đình khoa bảng, cha con cùng làm quan dưới triều Nhà Lê.
Dòng họ Cụ Nguyễn Du không những nổi tiếng về khoa bảng mà còn nổi danh trong lĩnh vực văn chương. Cụ Nguyễn Nghiễm còn để lại những tập Quân Trung liên vịnh, Xuân đình tạp vịnh, và quyển Việt sử bị lâm cung cùng nhiều tác phẩm chữ Nôm, từng làm bài phú Khổng tử mộng Chu công, nay còn truyền tụng. Nguyễn Nễ còn để lại Quê hiên giáp ất tập và Hoà trình hậu tập cũng sở trường về văn Nôm. Cháu Cụ Nguyễn Du là Nguyễn Thiện có tập thơ Đông phú và Nguyễn Đạm có tập thơ Quan hải, tập thơ Minh quyên đều là những văn hào đương thời. Danh sĩ trong nước thời bấy giờ theo truyền tụng có năm người lỗi lạc, được người Việt cũng như người Tầu gọi là “An Nam ngũ tuyệt” thì họ Nguyễn Tiên Điền có đến hai người là Cụ Nguyễn Du và Nguyễn Đạm.
Dòng họ này còn được người đời kính trọng về lòng trung nghĩa. Tổ tiên thuở xưa theo Nhà Mạc thì nhiều người tuẫn tiết khi Nhà Mạc mất ngôi. Thời Lê, sau khi Nhà Lê sụp đổ, mấy anh em Nguyễn Khản, Nguyễn Điêu, Nguyễn Luyện, Nguyễn Du cho đến cháu là Nguyễn Đạm đều khởi nghĩa cần vương. Từ Triều đại Tây Sơn sang tới thời Nhà Nguyễn nhiều người trong họ không chịu ra làm quan, kiên trinh giữ tiết với chúa cũ theo đúng phương châm "Tôi trung không thờ hai chúa".Câu ca dao:
“Bao giờ ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước họ này hết quan”
là chỉ cái danh giá, chức quyền của làng Tiên Điền, của dòng họ Nguyễn Du là vậy.
Năm 1771, lúc Cụ Nguyễn Du 5 tuổi thì gia đình chuyển về làng Tiên Điền và năm lên 10 thì cha mất. Đến năm 1778 thì mẹ Cụ qua đời, lúc mới 38 tuổi. Bị mồ côi cha mẹ, cậu phải ra Thăng Long ở chung với người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Khản bị kiêu binh ghét nên khi ông được chúa Trịnh cử làm Tham tụng thì họ kéo đến phá tan nhà và toan giết ông. Nguyễn Khản bỏ chạy lên sống với Nguyễn Điều, tổng trấn Sơn Tây; sau đó lại chạy về Hà Tĩnh.
Khi Cụ Nguyễn Du 9 tuổi thì đất nước rơi vào cuộc nội chiến Nam-Bắc giữa họ Trịnh và Nhà Nguyễn tái phát. Cha của Cụ Nguyễn Du được lệnh của Trịnh Kiểm, phụ tá Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào chiếm Phú Xuân năm 1777. Trong thời gian này Cụ Nguyễn Du sống và học hành tại Kinh đô Thăng Long. Dù phải sống trong hoàn cảnh rối loạn do đám kiêu binh gây ra, nhưng Cụ Nguyễn Du đã thành công trong việc học hành.
Năm 1783, Cụ Nguyễn Du đi thi Hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam Trường (đậu tú tài).
Cụ Nguyễn Du không tiếp tục học và thi cử nhân, mà theo chí hướng của người trai thời chinh chiến nhận chức quan Thủ Hiệu (Lãnh Binh) ở tỉnh Thái Nguyên, thay cho người cha nuôi mới qua đời. Từ đó, ông có tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ.
Cụ Nguyễn Du sinh ra thì Nhà Lê đã mất quyền hành. Họ Trịnh thao túng chính trường. Xã hội rối loạn là nguyên nhân đưa đến các cuộc khởi nghĩa tranh dành quyền lực.
Năm 1786 Họ Trịnh bị lật đổ. Năm 1789, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 3 dẹp bỏ luôn Nhà Lê. Là một quan chức của Triều Lê, dĩ nhiên Cụ Nguyễn Du không thể phục tùng Nhà Tây Sơn; nên ông tiếp tục "đánh Tây Sơn, phục Nhà Lê". Vua cuối cùng của Nhà Lê là Lê Mẫn Đế tức Lê Chiêu Thống (1787-1788) bị thất bại, chạy sang Tầu cầu cứu. Theo tài liệu của Phạm Thế Ngũ thì Cụ Nguyễn Du không kịp theo vua Chiêu Thống, nên trở về ở Thái Bình, cùng người anh vợ là Đoàn Nguyên Tuấn tụ tập dân binh mưu cuộc khởi nghĩa, nhưng bị dẹp tan. Khi ấy vua Quang Trung đã lên ngôi nắm vững quyền hành ở miền Bắc; nhưng ở miền Nam lại bị thua to, đất Gia Định bị mất về tay Nguyễn Ánh.
Cụ Nguyễn Du bị thất bại ở Quỳnh Côi mới nẩy sinh ý nghĩ vào Thanh Nghệ Tĩnh, toan tìm đường vào Nam mượn sức chúa Nguyễn chống Tây Sơn. Cụ đi tới Vinh thì bị chận bắt và ở tù một thời gian. May nhờ quan Trấn thủ Nghệ An của Tây Sơn là người quen biết với Nguyễn Nễ, người anh ruột cùng mẹ với Cụ. Nguyễn Nễ đã ra hợp tác với nhà Tây Sơn, được thăng Hàm Đông Các Đại học sĩ, gia tăng Thái sử Thự tả Nghị lang, tước Nghi Thành Hầu; nên Cụ Nguyễn Du được thả. Đây là thời điểm khiến cho một số tác giả cho rằng Cụ Nguyễn Du viết truyện Kiều vào lúc đó, khi ông tròn 30 tuổi. Nhận định này dựa vào truyện Kiều có câu: “Trải qua một cuộc bể dâu”. Bể dâu xuất phát từ câu “thương hải tang điền” (bãi bể (biển), nương dâu), theo nghĩa đen thì truyện thần tiên có nói về sự tuần hoàn trong vũ trụ cứ 30 năm biển bồi đất thành ruộng dâu và 30 năm ruộng dâu bị lở thành bể. Nghĩa bóng thì cuộc đời của con người luôn thay đổi (theo chu kỳ 30 năm).
Sau khi được thả, Cụ trở về làng sống trong thiếu thốn và chán nản, tiêu khiển bằng ngắm núi nhìn sông, săn bắn khắp vùng Hồng Lĩnh, nên mới có biệt hiệu là "Hồng Sơn Lạp Hộ". Nhiều lần Cụ phải ăn ở nhờ nhà người khác, có lúc ốm không có thuốc uống. Tập thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập (Thanh Hiên là hiệu của Cụ Nguyễn Du) được Cụ viết chủ yếu trong những năm tháng nàỵ.
Năm 1802, Nguyễn Ánh toàn thắng Nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên ngôi lấy tước hiệu là Gia Long xuống chiếu chiêu dụng các cựu thần Nhà Lê. Cụ Nguyễn Du lúc đó 38 tuổi cũng nằm trong danh sách được mời gọi. Bất đắc dĩ Cụ phải ra làm Tri huyện Phù Dực (nay thuộc tỉnh Thái Bình) tước Du Đức Hầu; ít lâu sau được thăng lên chức Tri phủ Thường Tín (tỉnh Hà Đông). Năm 1806 Cụ cáo bệnh về nhà, được một tháng lại bị mời ra thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ (ngang hàng với Tam Khôi, tiến sĩ trong khi Cụ chưa đậu cử nhân), năm 1809 làm cai bạ tỉnh Quảng Bình (phó tỉnh trưởng coi về thuế má) và năm 1813 được thăng Cần Chính Điện Đại Học Sĩ (Văn quan Nhất phẩm: chức cao nhất trong hàng quan văn), được cử làm chính sứ đi Trung Hoa. Sau khi đi sứ về ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri vào năm 1815.
Đường công danh của Cụ Nguyễn Du với nhà Nguyễn không trở ngại. Cụ thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí. Nguyễn Du sinh trưởng ở thời loạn lạc, lại gặp cảnh nước mất nhà tan mà mình không thể nào vãn hồi được, đành phải ôm mối hận lòng. Mặc dù được trọng dụng, nhưng Cụ Nguyễn Du không mấy vui lòng nhận bổng lộc của triều đình mới.
Đối với vua mỗi khi yết kiến Cụ làm ra vẻ sợ sệt, không biết nói năng gì. Có lần vua đã trách rằng:
“Triều đình dùng người, cứ kẻ hiền tài là dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc. Ngươi với Ngô Vị, đã được ơn tri ngộ làm quan đến bực Á Khanh, biết việc gì thì phải nói để hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện thôi!”.
Thực ra, Nếu hiểu rõ về sự trung thành của dòng họ Cụ Nguễn Du thì đó là sự trung thành của Cụ với triều Lê chứ không phải vì sự đè nén, không được thỏa chí, ghen tị của các quần thần triều đại mới. Cái nỗi lòng sâu kín này Cụ không thể công khai bày tỏ cùng ai, nên thường buồn rầu, bực tức; thậm chí Cụ e sợ rằng đời sau cũng chưa chắc có người hiểu thấu được lòng mình:
Tháng hai năm Quý Dậu (1813), Cụ Nguyễn Du nhận lệnh vua làm Chánh sứ, dẫn đầu phái đoàn gồm Đàm Ân Hầu (tham sự bộ Lại) và Phong Đăng Hầu (tham sự bộ Lễ), đi triều cống Trung Hoa. Ngày 6/4 năm Quý Dậu, Chánh sứ Nguyễn Du chính thức bước qua ải Nam Quan, bắt đầu hành trình đến Bắc Kinh. Những ngày tháng đua tài với các sứ thần Hàn, Nhật... chắc họ Nguyễn đã tỏ rõ được cái sở học uyên bác của mình. Trong thời gian đi sứ, Cụ đã được tận mắt chứng kiến nhiều nỗi oan trái và cuộc sống khổ ải của dân nghèo, sau này đã được tập hợp lại trong tập thơ mang tên Bắc hành Tạp lục (131 bài). Cũng trong thời gian này Cụ Nguyễn Du đã có dịp tìm hiểu sâu nền văn hoá Trung Quốc. Với vốn sống đa dạng và tài năng kiệt xuất của mình, sau khi về nước, Cụ đã hoàn thành tác phẩm Truyện Kiều, lấy cảm hứng từ tập truyện của tác giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân. Truyện Kiều sau đó đã vượt lên trên nguyên tác, trở thành một kiệt tác thơ trong lịch sử văn chương Việt Nam.“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.”
Dịch “Ba trăm năm nữa mơ màng
Biết ai thiên hạ khóc chàng Tố Như”.
Tháng Tư năm Giáp Tuất (1814), Cụ Nguyễn Du cùng đoàn sứ thần về nước. Sau khi hoàn thành trọng trách cùng với đoàn sứ bộ, Cụ được thăng chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri.
Năm 1820, sau khi vua Gia Long chết, Minh Mạng lên ngôi, cử Cụ đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì Cụ đột ngột qua đời ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch tức ngày 16-9-1820 trong một cơn đại dịch, khi mới 56 tuổi.
Cụ Nguyễn Du lập gia đình, có 3 vợ và 18 con. Sau khi Cụ qua đời, gia đình ly tán.
Cụ Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc. Có thể nói toàn bộ tác phẩm của Cụ, chữ Hán cũng như chữ Nôm có nội dung nói về tình cảm, thân phận con người trong xã hội Việt Nam xưa, đặc biệt những người phụ nữ. Không phải chỉ trong Truyện Kiều, mà trong Thơ chữ Hán và trong Văn chiêu hồn của Cụ, tình thương ấy cũng tràn ngập.Những bài thơ chữ Hán được xếp vào loại hay nhất là những bài Cụ viết về con người bất hạnh như: Thái Bình Mại Ca Giả (Người hát rong ở thành Thái Bình) viết về một ông già mù đi hát rong để kiếm ăn; Hà Nam Đạo Trung Khốc Thử (Nắng dữ trên đường đi ở Hà Nam) viết về một ông già khác kéo xe giữa một buổi trưa trời nắng gay gắt; Sở Kiến Hành (Bài hành về những điều trông thấy) viết về bốn mẹ con một người đi ăn xin sắp chết đói; Trở Binh Hành (Bài hành về việc binh đao làm nghẽn đường) viết về những người nông dân chết đói ở Hà Nam... Long Thành Cầm Giả Ca (Bài ca người gảy đàn ở Long Thành); Điếu La Thành Ca Giả (Viếng người ca nữ đất La Thành); Độc Tiểu Thanh ký (Đọc tập Tiểu Thanh ký)...
Ngoài ra còn 3 bài khác có tựa đề: Thanh Hiên Tiền Hậu Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Bắc Hành Thi Tập
Rồi những bài thơ chữ Nôm: Bài thác lời trai phường nón (ghi lại những câu hát hò giữa trai gái hai làng Trà Cựu và Tiên Điền; Bài văn tế sống Trường lưu nhị nữ; Bài văn cúng Thập loại Chúng sinh hay Chiêu Hồn ca; Truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh.View more the latest threads:
- Cuộc chuyển giao quyền lực nhà nước phong...
- Truyền thuyết Đức Thánh Chèm
- Những lần Dân tộc ta đứng trước thử thách bị...
- Nét đặc trưng trong văn hóa của người Việt cổ
- Lịch sử thời đại Vua Hùng Bách Việt Văn Lang...
- Lòng yêu nước của vua Duy Tân
- Bát Cổ - Sơ đồ và lộ trình đi
- Bát Cổ - Hành trình tự khám phá Bát Cổ
- Tìm hiểu về nguồn cội Tộc Việt
- Lịch sử Dòng Tộc Họ Đỗ
-
6 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Tâm An
Hua Toan (02-03-2013),Nganpham (12-05-2013),tam_thuc (14-12-2013),thanhphong (14-03-2015),tranhung266 (17-02-2013),ĐINHQUANG HIỆP (17-02-2013)