Kết quả 1 đến 1 của 1
  1. #1
    Ngày tham gia
    Feb 2012
    Bài viết
    126
    Cảm ơn!
    1,228
    Thanked 2,436 Times in 124 Posts

    Mặc định Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật - nhà ngoại giao lẫy lừng của nhà Trần.

    Tấm gương học tập của tướng quân nhà Trần.

    Trong nền kinh tế tri thức ngày nay, công nghệ hiện đại đang dần thay thế sức người khỏi những công việc giản đơn và lặp đi lặp lại. Nhờ vậy đã giải phóng sức lao động, tăng năng suất cũng như lợi nhuận.

    Song đi kèm với đó là sức ép đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn cao hơn trước, thái độ làm việc chuyên nghiệp và giỏi ngoại ngữ. Từ sức ép trên đã đặt ra nhu cầu hết sức cấp thiết cho mỗi chúng ta, đó là không ngừng học hỏi và nâng cao tri thức của bản thân.

    Trên con đường học vấn, chúng ta có thể gặp rất nhiều những tấm gương về sự học ở khắp năm châu bốn biển, và ngay trong lịch sử Việt Nam cũng có biết bao tấm gương như thế. Tôi cảm thấy hết sức may mắn khi được biết đến Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật- vị tướng thông thuộc rất nhiều thứ tiếng trong và ngoài nước. Ông am hiểu từ tiếng Chiêm Thành, tiếng các dân tộc vùng ven sông Đà tới tiếng Trung Quốc, Sách Mã Tích (Singapore cổ) trong điều kiện không hề có những thiết bị tối tân phục vụ cho người học thời nay như kim từ điển, google hay loa đài …

    Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (sinh tháng tư năm Ất Mão, 1255) là con trai thứ sáu của Trần Thái Tông (người đời ấy thường gọi là Ông hoàng sáu hoặc Đệ lục hoàng tử), và là em của Trần Thánh Tông.

    Theo sử sách, từ nhỏ ông đã nổi tiếng là hiếu học và "sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người". Truyền rằng khi mới sinh, trên tay Trần Nhật Duật có bốn chữ "Chiêu Văn đồng tử". Sau vua Trần lấy đó mà đặt vương hiệu cho ông là Chiêu văn (có nghĩa là đón, gọi cái đẹp).

    Trần Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Ngoài việc thông thạo nhiều ngoại ngữ, ông còn có sự hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, ông chẳng những sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả phong tục tập quán của họ. Đối với các dân tộc trong nước, Nhật Duật không những hiểu tiếng mà còn hiểu cả tâm tư người khác.

    Ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được triều đình nhà Trần giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan. (Công việc này ngày nay tương đương chức chủ nhiệm Ủy ban Dân Tộc).

    Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, vào thời của vua Trần Nhân Tông, có một lần sứ thần nước Sách Mã Tích (tên cổ của Singapore) sang cống, nhưng triều đình không tìm được người phiên dịch.

    Vua triệu tập các phiên dịch viên giỏi nhất của thành Thăng Long lại để nói chuyện với sứ thần, nhưng không một ai nói được tiếng Sách Ma Tích. Trần Nhật Duật biết chuyện liền đến gặp sứ thần và nói chuyện trôi chảy bằng thứ ngôn ngữ lạ trong sự thán phục của những người có mặt.

    Sau chuyện này, có người hỏi Trần Nhật Duật vì sao biết được tiếng nước Sách Ma Tích. Ông trả lời: “Thời vua Thái Tông, sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ, nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ”.

    Trong các ngoại ngữ thì tiếng Chăm là thế mạnh của Trần Nhật Duật. Từ thành Thăng Long, ông thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già (phía Tây Hà Nội ngày nay), nơi sinh sống của các cư dân có nguồn gốc từ tù binh Champa. Ông rất say mê trò chuyện, tìm hiểu ngôn ngữ, văn hóa của người Chăm và thường ở lại cùng họ mấy ngày mới về.

    Tài ngoại ngữ của Trần Nhật Duật khiến vua rất thán phục. Có lần vua còn nói đùa: “Chiêu Văn Vương có lẽ không phải người Việt mà là kiếp sau của giống Phiên, Nam (chỉ các dân tộc lân bang ở vùng Đông Nam Á thời đó)”.

    Năm 1280, Trịnh Giác Mật - tù trưởng địa phương ở Đà Giang (Tây Bắc ngày nay) nổi lên chống lại triều đình giữa lúc nhà Nguyên chuẩn bị đưa quân sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Trần Nhật Duật được lệnh đem quân dẹp loạn.

    Song, với khả năng ngoại giao bằng chính thứ tiếng của Giác Mật, ông đã khiến vị tù trưởng này phải thốt lên: “Chiêu Văn Vương là anh em với ta”. Sau buổi gặp gỡ, Trịnh Giác Mật đã đem cả gia thuộc đến doanh trại Trần Nhật Duật xin hàng phục triều đình.

    Về tiếng Hán - ngoại ngữ thông dụng trong giới quan lại quý tộc nhà Trần - Trần Nhật Duật cũng tỏ ra xuất sắc hơn người, khiến sứ nhà Nguyên từng tưởng nhầm Trần Nhật Duật là người Hán sang Đại Việt làm quan. Kỹ năng tiếng Hán đặc biệt của Trần Nhật Duật có thể lý giải bằng việc ông có mối quan hệ thân mật với những người Hán ở kinh thành Thăng Long.


    Theo thông lệ, khi sứ phương Bắc sang thì triều đình phải sai phiên dịch viên làm trung gian, tể tướng không được người trực tiếp đối thoại, đề phòng việc xảy ra sai sót gì thì còn có thể đổ lỗi cho người phiên dịch.

    Nhưng tể tướng Trần Nhật Duật lại là ngoại lệ. Khi tiếp sứ nhà Nguyên ông thường nói chuyện trực tiếp với họ. Khi sứ về nơi nghỉ thì dắt tay cùng vào, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn vẫn quen biết.

    Có thể nói, tấm gương học tập của vị tướng quân nhà Trần là hết sức đáng nể. Ông học hỏi ngôn ngữ, văn hóa của các dân tộc khác với một niềm say mê hào hứng. Sự đam mê đó đã lấp đi những khó khăn về điều kiện học tập thô sơ thời bấy giờ, khiến những thế hệ đi sau được nghiệm lại một bài học tuy không mới, nhưng chân xác: “Học đi đôi với hành” và “học để tìm kiếm cái đẹp”.

  2. 15 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới ThanhTrung90

    BONGMAYHOA (01-03-2014),Dungnph (23-03-2016),Hoan (12-02-2013),Hua Toan (11-02-2013),kiencuong304 (17-06-2013),tamanh (11-02-2013),thanhphong (31-08-2014),tranhung266 (11-02-2013),trungthanh (11-01-2015),Vidieu (18-02-2013),xuangiang14 (12-02-2013),ĐINHQUANG HIỆP (14-02-2013)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •