Kết quả 1 đến 10 của 13
Chủ đề: Viết Về Bát Cổ
Threaded View
-
26-11-2010, 11:47 #6
Khách
- Ngày tham gia
- Nov 2010
- Bài viết
- 3
- Cảm ơn!
- 0
- Thanked 9 Times in 2 Posts
Viết Về Bát Cổ
Thưa chú Nguyệt Quang Tử
Chào anh chị em trong diễn đàn.
Cháu mới bắt đầu tập khí công tâm linh được khoảng 1 tháng, bước đầu đã có một số cảm nhận, cháu sẽ post kết quả trong một chủ đề khác.
Hưởng ứng chủ đề " Viết về Bát Cổ " cháu xin đóng góp chút ít về lịch sử của thiền phái Trúc Lâm và các vị sư tổ . Thông tin này cháu tìm kiếm trên mạng, chưa có thời gian kiểm chứng, mong chú và các anh chị em đóng góp ý kiến.
Trúc Lâm Yên Tử (竹林安子) là một dòng thiền Việt Nam đời nhà Trần, do Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm cũng là hiệu của Trần Nhân Tông, đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng thiền Yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loavà Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12– đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái Trúc Lâm được một vị vua nhà Trần sáng lập, được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh(1600-1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
Sau một thời gian ẩn dật, dòng thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỉ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng.
Sau đây là hệ thống truyền thừa trong Đại nam thiền uyển truyền đăng lục (大南禪苑傳燈錄), được Thiền sư Phúc Điền (福田) đính bản:
1. Trần Nhân Tông
2. Pháp Loa
3. Huyền Quang
4. An Tâm (安心);
5. Phù Vân Tĩnh Lự (浮雲靜慮);
6. Vô Trước (無著);
7. Quốc Nhất (國一);
8. Viên Minh (圓明);
9. Đạo Huệ (道惠);
10. Viên Ngộ (圓遇);
11. Tổng Trì (總持);
12. Khuê Sâm (珪琛);
13. Sơn Đăng (山燈);
14. Hương Sơn (香山);
15. Trí Dung (智容);
16. Huệ Quang (慧 光);
17. Chân Trụ (真住);
18. Vô Phiền (無煩).
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%...3%BAc_L%C3%A2m
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba củanhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trướcTrần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất tronglịch sử Việt Nam.
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (1258).
Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm 1278, ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.
Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.
[sửa]Niên hiệu
Thiệu Bảo (1278 - 1285)
Trùng Hưng (1285 - 1293)
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm[1], Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,[2] lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.
Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
Tại Hà Nội có phố Trần Nhân Tông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Thi phẩm
Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần
Xuân hiểu
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
Buổi sớm mùa xuân
Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chửa hay,
Song song đôi bướm trắng,
Phất phới sấn hoa bay.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Hạnh Thiên Trường hành cung
Cảnh thanh u vật diệc thanh u
Thập nhất tiên châu thử nhất châu.
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
Kim niên du thắng tích niên du
Dạo chơi hành cung Thiên Trường
Cảnh thanh u vật cũng thanh u
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát
Nghìn hàng đám quít, đám quân hầu
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước có thu lồng trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng
Độ xưa so với độ nay thua.
(Bản dịch Khuyết danh)
Cư trần lạc đạo (http://vannghevietnam.vn/portal.asp?...%A2n_T%C3%B4ng)
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO (TRẦN NHÂN TÔNG)
Thứ sáu, 21/11/2008 - 7:47:25 PM
Đệ nhất hội
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
Tham ái nguồn dừng , chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng , được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
Chơi nước biếc ẩn non xanh , nhân gian có nhiều người đắc ý
Biết đào hồng hay liễu lục , thiên hạ năng mỗ chủ tri âm
Nguyệt bạc vừng xanh , soi mọi chỗ thiền hà lai láng
Liễu mềm hoa tốt , ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm
Lo hoán cốt ước phi thăng , đan thần mới phục
Nhắm trường sinh về thượng giới , thuốc thỏ còn đam
Sách dễ xem chơi , yêu tính sáng yêu hơn châu báu
Kinh nhàn đọc dấu , trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim
**
Đệ nhị hội
Biết vậy !
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc
Xét thân tâm rèn tính thức há rằng mong quả báo phô khoe
Cầm giới hạnh địch vô thường nào có sá cầu danh bán chác
Ăn rau ăn trái nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay
Vận giấy vận sồi thân căn có ngại chi đen bạc
Nhược chỉn vui bề đạo đức nửa gian lều quý nửa thiên cung
Dầu năng miễn thửa nhân nghì ba phiến ngói yêu hơn lầu gác
**
Đệ tam hội
Nếu mà cốc
Tội ắt đã không
Pháp học lại thông
Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo
Sửa mình học cho phải chính tông
Chỉn bụt là lòng sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ
Vong tài đổi sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công
Áng tư tài tính sáng chẳng tham , há vì ở Cánh Diều Yên Tử
Răn tham sắc niềm dừng chẳng chuyển , lọ chi ngồi Am Sạn Non Đông
Trần tục mà nên , phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc , họa kia thực cả đồ công
Nguyền mong thân cận minh sư , quả Bồ đề một đêm mà chín
Phúc gặp tình cờ tri thức , hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông
**
Đệ tứ hội
Tin xem
Miễn cốc một lòng
Thời rồi mọi hoặc
Chuyển tam độc mới chứng tam thân
Đoạn lục căn nên trừ lục tặc
Tìm đường hoán cốt , chỉn xá năng phục dược luyện đan
Hỏi pháp chân không , hề chi lánh ngại thanh chấp sắc
Biết chân như , tin bát nhã , chớ còn tìm phật tổ tây đông
Chứng thực tướng nên vô vi , nào nhọc hỏi kinh nam bắc
Xem Tam Tạng giáo , ắt học đòi thiền uyển thanh quy
Đốt ngũ phần hương , chẳng tổn đến chiên đàn chiêm bặc
Tích nhân nghì tu đạo đức , ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh đoạn ghen tham , chỉn thực ấy là Di Lặc
**
Đệ ngũ hội
Vậy mới hay
Bụt ở cong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chỉn bụt là ta
Thiền ngỏ năm câu , nằm nhãng cong quê Hà Hữu
Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La
Trong đạo nghĩa , khoảng cơ quan , đà đụt lặn trường kinh cửa tổ
Lánh thị phi , ghê thanh sắc , ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
Đức bụt từ bi , mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã qua
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa , hoặc châm hoặc xể
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa , dầu bạc dầu thoa
Ngăn bát thức nén bát phong , càng đè càng bội
Lẩy tam huyền , nong tam yếu , một cắt một ma
Cầm vốn thiếu dây , xá đàn dấu xoang Vô sinh khúc
Địch chăng có lỗ , cũng bấm chơi xướng Thái bình ca
Lẩy cội tìm cành , còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão
Quay đầu chớp bóng , ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa
Lọt quyển kim cương , há mặt hầu thông nên nóng
Nuốt bồng lật cức , nào tay phải xước tượng da .
**
Đệ lục hội
Thực thế
Hãy xá vô tâm
Tự nhiên hợp đạo
Dừng tam nghiệp mới lặng tam thân
Đạt một lòng thì thông tổ giáo
Nhận văn nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ
Chứng lý tri cơ , cứng cát phải nạp tăng khôn khéo
Han hữu lậu han vô lậu , bảo cho hay the lọt duộc thưng
Hỏi Đại thừa hỏi Tiểu thừa , thưa thẳng tắt sồi tiền tơ gạo
Nhận biết làu làu lòng vốn , chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên
Dồi cho vặc vặc tính gương , nào có nhuộm căn trần huyên náo
Vàng chưa hết quặng , xá tua chín phen đúc chín phen rèn
Lộc chẳng còn tham , miễn được một thì chay một thì cháo
Sạch giới lòng dồi giới tướng , nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa thảo thờ cha , đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
Tham thiền kén bạn , nát thân mình mới khá hồi ân
Học đạo thờ thầy , dọt xương óc chưa thông của báo
**
Đệ thất hội
Vậy mới hay
Phép bụt trọng thay
Rèn mới cốc hay
Vô minh hết bồ đề thêm sáng
Phiền não rồi đạo đức càng say
Xem phỏng lòng kinh lời bụt thốt dễ cho thấy dấu
Học đòi cơ tổ sá thiền không khôn chút biết nơi
Cùng căn bản , tã trần duyên , mựa để mỗ hào ly đương mặt
Ngã thắng chàng , viên tri kiến , chớ cho còn họa trữ cong tay
Buông lửa giác ngộ đốt hoại thảy rừng tà thời trước
Cầm kiếm trí tuệ quét cho không tính thức thuở nay
Vâng ơn thánh , xót mẹ cha , thờ thầy học đạo
Mến đức Cù , kiêng bùi ngọt , cầm giới ăn chay
Cảm đức từ bi , để nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Đòi ơn cứu độ , nát muôn thân thà chịu đắng cay
Nghĩa hãy nhớ , đạo chẳng quên , hương hoa cúng xem còn nên thảo
Miệng rằng tin , lòng lại lỗi , vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay
**
Đệ bát hội
Chưng ấy
Chỉn xá tua rèn
Chớ nên tuyệt học
Lay ý thức chớ chấp chằng chằng
Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc
Công danh mảng đắm , ấy toàn là những đứa ngây thơ
Phúc tuệ gồm no , chỉn mới khá nên người thực cốc
Dựng cầu đò , dồi chiền tháp , ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu
Săn hỉ xả , nhuyễn từ bi , nội tự tại kinh lòng hằng đọc
Rèn lòng làm bụt , chỉn xá tu một sức dùi mài
Đãi cát kén vàng , còn lại phải nhiều phen lựa lọc
Xem kinh đọc lục , làm cho bằng thửa thấy thửa hay
Trọng bụt tu thân , dùng mựa lỗi một tơ một tóc
Cùng nơi ngôn cú , chỉn chăng hề một phút ngại lo
rất thửa cơ quan , mựa còn để tám hơi dọt lọc
**
Đệ cửu hội
Vậy cho hay
Cơ quan tổ giáo
Tuy khác nhiều đường
Chẳng cách mấy gang
Chỉn xá nói từ sau Mã tổ
Ắt đã quen thuở trước Tiêu Hoàng
Công đức toàn vô , tính chấp si càng thêm lỗi
Khuếch nhiên bất thức , tai ngu mảng ắt còn vang
Sinh Thiên Trúc , tử Thiếu Lâm , chôn dối chân non Hùng Nhĩ
Thân bồ đề , lòng minh kính , bài giơ mặt vách hành lang
Vương lão chém mèo , lại trẩy lòng ngừa thủ tọa
Thầy Hồ khua chó , trỏ xem trí nhẹ con giàng
Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư , chẳng cho mà cả
Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc , khôn đến thưa đang
Phá Táo phất cờ , đạp xuống dấu thiêng thần miếu
Câu Chi day ngón , dùng đòi nếp cũ ông ang
Lưỡi gươm Lâm Tế , nạng Bí Ma , trước nạp tăng dầu tự tại
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu , răn đàn việt hượm xá nghênh ngang
Đưa phiến tử , cất trúc bề , nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn
Xô hòn cầu , cầm mộc thược , bạn thiền hòa thửa khoe khoang
Thuyền tử rà chèo , dòng xanh chửa cho tịn tẩy
Đạo Ngô múa hốt , càn ma dường thấy quái quàng
Rồng Yển lão nuốt càn khôn , ta xem chỉn lệ
Rắn ông Tồn ngang thế giới , người thấy ắt dương
Cây bách là lòng , thác ra trước phải phương Thái Bạch
Bính đinh thuộc hỏa, lại trở sau hỏi hướng Thiên Cang
Trà Triệu lão, bánh Thiều dương , bầy thiền tử hãy còn đói khát
Ruộng Tào Khê , vườn Thiếu Thất , chúng nạp tăng những để lưu hoang
Gieo bó củi , nẩy bông đèn , nhân mang mới nát
Lộc đào hoa nghe tiếng trúc , mặc vẻ mà sang
**
Đệ thập hội
Tượng chúng ấy
Cốc một chân không
Dụng đòi căn khí
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông
Há cơ tổ nay còn thửa bí
Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến , bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành
Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên , ai ghẽ có sơn lâm thành thị
Núi hoang rừng quạnh , ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
Triền vắng am thanh , chỉn thực cảnh đạo nhân du hí
Ngự cao tán cả , Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang
Gác ngọc lầu vàng , ngục tốt thiếu chi người yêu quý
Chuộng công danh , lồng nhân ngã , thực ấy phàm phu
Say đạo đức , dời thân tâm , định nên thánh trí
Mày ngang mũi dọc , tướng tuy là xem ắt bẵng nhau
Mặt thánh lòng phàm , thực cách nhẫn vạn vàn thiên lý
**
Kệ vân:
Cư trần lạc đạo thả trùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền
Gia quyến
Vợ:
Bảo Thánh hoàng hậu hay Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu (?-13/9/1293), con gáiTrần Hưng Đạo.
Tuyên Từ hoàng hậu hay Tuyên Từ thái hậu (?-19/8/1318)
Con trai:
Hoàng Thái Tử -> Anh Tông Trần Thuyên (con của Bảo Thánh Hoàng Hậu)
Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (29/1/1281-3/1328)
Con gái:
Công chúa Huyền Trân
Đại Việt sử ký toàn thư của các sử gia thời Hậu Lê nhận định về ông:
“Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân”.
Đền thờ
Đền Trần ở quê hương Nam Định
Đền Thái Vi nơi các vua Trần xuất gia
Đỉnh thiêng Yên Tử
Đền Trần Nhân Tông tại Huế
Tượng đài
Công trình tượng đài Trần Nhân Tông được xây dựng tại khu vực An Kỳ Sinh, trên non thiêng Yên Tử có kinh phí đầu tư gần 70 tỷ đồng.
Tượng đài với các phần: Đài sen và tượng được đúc bằng đồng liền khối (nguyên liệu nhập từ Australia), nặng khoảng 100 tấn, cao 9,9 m. Bệ đỡ tượng cao 2,9m; rộng 7,25m, kết cấu bằng bê tông cốt thép cường độ chịu lực ca; sân hành lễ, bậc đá, khuôn viên được lát bằng đá phiến tự nhiên.
Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%B...%A2n_T%C3%B4ng
-
5 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Smile
bần tăng (26-06-2021),Dieu Minh (27-12-2011),lê chí công (05-05-2014),tanrau (27-06-2021)