Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
Kết quả 11 đến 13 của 13

Chủ đề: Viết Về Bát Cổ

  1. #11
    Ngày tham gia
    Aug 2011
    Bài viết
    48
    Cảm ơn!
    686
    Thanked 582 Times in 52 Posts

    Mặc định

    Huyền Thiên Cổ Tự
    Huyền Thiên Cổ Tự nơi địa linh
    Tam Tổ hành đạo độ chúng sinh
    “Cư Trần Lạc Đạo” Ngài truyền lại
    Chúng đẳng làm theo hưởng khang ninh.
    Lần sửa cuối bởi Lam, ngày 23-04-2012 lúc 14:56. Lý do: Thay từ "luyện tu" bằng "hành đạo"
    Một lòng tu luyện không ngừng nghỉ
    Đền nợ non sông trả nghĩa Thầy

  2. 11 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Lam

    bần tăng (26-06-2021),lê chí công (05-05-2014),longtadinh (03-05-2019),manhcao277 (04-03-2016),PhongThuyGia (17-04-2012),Phương Nam (14-04-2012),tanrau (27-06-2021),thanhphong (31-07-2014),Thutrang (12-06-2025),TruongKhoat (16-04-2012)

  3. #12
    Ngày tham gia
    Aug 2011
    Bài viết
    48
    Cảm ơn!
    686
    Thanked 582 Times in 52 Posts

    Mặc định

    Long Động Cổ Chai
    Long Động Cổ Chai vẫn ngát hương
    Hoa sen giếng ngọc như vấn vương
    Một đời tài hoa và liêm chính
    Lưỡng Quốc Trạng Nguyên niềm kính thương.
    Lần sửa cuối bởi NguyetQuangTu, ngày 26-06-2021 lúc 15:04.
    Một lòng tu luyện không ngừng nghỉ
    Đền nợ non sông trả nghĩa Thầy

  4. 15 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Lam

    bần tăng (26-06-2021),BONGMAYHOA (06-04-2014),HoaXuan (17-04-2012),lê chí công (05-05-2014),longtadinh (03-05-2019),manhcao277 (04-03-2016),manhtuongngo (26-06-2021),Mùa Xuân Đến (28-06-2021),PhongThuyGia (17-04-2012),phuongpham (18-07-2021),Phương Nam (16-04-2012),tanrau (27-06-2021),Thutrang (12-06-2025),TruongKhoat (16-04-2012),TuMinh (26-06-2021)

  5. #13
    Ngày tham gia
    Aug 2012
    Bài viết
    363
    Cảm ơn!
    7,058
    Thanked 9,115 Times in 360 Posts

    Mặc định

    Thầy Chu Văn An – Người Thầy của muôn đời
    1/ Thân thế và sự nghiệp
    a/ Thân thế
    Thầy Chu Văn An tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Thầy sinh ngày 6 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1292) mất ngày 28 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) tại làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Thân phụ Thầy là cụ Chu Húy Thiệu người phương Bắc, một quan chức giỏi thiên văn địa lý. Thân mẫu thầy là cụ Lê Thị Chiêm, người thôn Văn làm buôn bán nhỏ ở chợ để nuôi thầy ăn học.
    Thầy Chu Văn An thuở nhỏ sớm có nghị lực, học rất giỏi, nghiêm khắc sửa mình, c­ương trực thẳng thắn, không màng danh lợi. Thầy đỗ Tiến sỹ năm 12 tuổi. Mặc dù đỗ đạt cao như­ng thầy không ra làm quan mà ở nhà đọc sách và dạy học tại thôn Văn, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có người đỗ đại khoa, vào chính phủ như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã làm hành khiển và vẫn giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì Thầy nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Thầy có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Thầy là một nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối thời Trần.

    b/ Sự nghiệp
    Do thời đó trường lớp ít quá chỉ có trường Quốc Tử Giám nên thầy đã mở thêm trường Huỳnh Cung tại quê nhà (Thanh liệt, Thanh trì, Hà Nội) để dạy học. Học trò đến học rất đông tới 3.000 người. Thời kỳ dạy học ở Huỳnh cung, thầy chuyên truyền đạt kinh điển Nho giáo, mục đích cao nhất của thầy không ngoài “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy sự cung kính, trung hậu và văn nhã. Học trò ở trường Huỳnh Cung cũng chịu ảnh hưởng của thầy Chu Văn An rất lớn. Trong khoa thi năm 1314, hai học trò của thầy đỗ Thái học sinh tương đương học vị tiến sĩ. Việc này gây tiếng vang lớn trong giới sĩ tử đương thời. Thầy giáo Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được cả nước biết đến. Trường Huỳnh cung trở thành mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Kể từ đây, bên cạnh trường quốc lập, các trường dân lập phát triển, đông đảo con em nhân dân có nơi học tập, sự nghiệp giáo dục nước nhà mở rộng hơn trước.

    Vua Trần Minh Tông (1300-1357) mời Thầy ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai. Đến đời Dụ tông, thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, thầy dâng Thất trảm sớ xin chém bảy tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Thầy chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn (người hái củi ở ẩn) dạy học, viết sách cho tới khi mất.

    Thầy thích núi Chí Linh nên ở đấy, khi nào có triều hội lớn thì đến kinh sư. Thái Tử Dụ Tông đem chính sự trao cho thầy nhưng thầy từ chối không nhận. Hiến Từ hoàng thái hậu bảo: “Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được ông ta?”. Vua sai nội thần đem quần áo ban cho thầy. Thầy lạy tạ xong, liền đem cho người khác hết. Thiên hạ đều cho là bậc cao lương.

    Từ khi thầy Chu Văn An về ở núi Chí Linh, Chí Linh dấy lên phong trào học tập, nhiều người học giỏi nổi tiếng. Đặc biệt, ở đời nhà Mạc, huyện này có bà Nguyễn Thị Duệ thi đỗ tiến sĩ, là nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của Việt Nam thời phong kiến. Ngoài ra còn có Nguyễn Phong, mới 14 tuổi đã cùng cha thi đỗ kỳ thi Hương, 26 tuổi đỗ tiến sĩ. Những ngày dạy học ở Chí Linh, thầy còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y học, giúp người dân chữa bệnh.

    Khi Thái tử Dụ Tông băng, quốc thống suýt mất, nghe tin các quan đến lập vua, thầy mừng lắm. Chống gậy đến xin bái vết, xong lại xin trở về quê từ chối không nhận chức gì.

    Tháng 11/1370 thầy ốm nặng và mất lúc 78 tuổi. Khi thầy mất, Vua sai quân đến tế, ban tặng tên thụy, ít lâu sau có lệnh cho tòng tư ở Văn miếu, xem thầy ngang hàng với các bậc thánh hiền ngày xưa.

    Sự nghiệp của thầy Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo mẫu mực của muôn đời, là tấm gư­ơng sáng cho hậu thế noi theo. Sinh thời thầy có làm thơ, viết sách, nghiên cứu y dư­ợc, thầy Chu Văn An biên soạn nhiều sách để dạy học và sáng tác nhiều thơ văn như­: Tứ th­ư thuyết ­ước, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Y học yếu giải…Nay phần lớn đã thất truyền, chỉ còn lại 12 bài thơ chữ Hán và tập Y học yếu giải. Những bài thơ còn lại đến nay phần lớn đư­ợc sáng tác trong những năm cuối đời ở Phư­ợng Hoàng như­ các bài: Linh sơn tạp hứng, Thanh L­ương giang, Miết trì, Xuân đán, Sơ hạ…

    Trong sự nghiệp giáo dục, thầy Chu Văn An có nhiều cải cách tiến bộ khiến cho đương thời và mãi mãi về sau ghi nhận và trân trọng. Thầy là người đầu tiên truyền đạo Nho của Khổng Tử sang Việt Nam thành một đạo riêng biệt của người Việt đó là “Hữu giáo vô loại”, tức là nền giáo dục đi tới muôn dân.

    Trong khắp các nhà trường của chúng ta ngày nay đều dạy học sinh theo quan điểm “Học đi đôi với hành” Điều này 700 năm trước thầy Chu Văn An đã nói: “ Học mới chỉ là mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến được, có biết mới làm được, có làm mới biết. Nhưng cái biết trong làm mới là cái biết thiết thực, cái biết sâu sắc nhất.

    2/ Sự tích các ngôi đền thờ Thầy Chu Văn An
    a/ Văn miếu Quốc Tử Giám
    Sau khi thầy Chu Văn An mất, vua Trần Nghệ Tông cảm phục tài năng và đức độ của Thầy đã ban tước là Văn Trinh Công, tên thụy là Khang Tiết và cho phối thờ tại Văn Miếu.

    Khu Thái Học được hoàn thành vào năm 2000 là công trình kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội. Năm 2003, Thầy đã được làm tượng và thờ tại đây. Nhà điêu khắc Lê Quốc Bảo là tác giả của pho tượng. Tác giả đã nghiên cứu rất kỹ về Thầy Chu Văn An. Ông đã dồn tâm huyết để hoàn thành pho tượng lột tả được nhân cách, thần thái và phong cách của Danh sư Chu Văn An. Tượng mang dáng vẻ của người khoảng 60 tuổi, đầu đội mũ Đinh, trên mũ có gắn viên ngọc của các bậc hiền triết. Vốn là quan văn nên khuôn mặt Thầy xương xương nho nhã, râu mỏng và thưa, mày đang chau lại vì quan tâm thời cuộc. Vầng trán Thầy cao rộng, hình lá gan úp thể hiện là người tư duy trực cảm mạnh mẽ. Mũi giọt mật của bậc hiền sĩ là người thông thái. Hai tai đều đặn, thùy tai đẫy đà, vành tai thành quách rõ ràng biểu hiện của người quân tử. Phía sau lưng ghế có chạm trổ hình cây vũ trụ. Đây là pho tượng nhận được nhiều sự quan tâm của du khách khi đến thăm khu Di tích. Tượng Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An làm bằng đồng, cao 2m3, nặng khoảng 3 tấn, do các nghệ nhân làng đúc đồng nổi tiếng Ngũ Xã đúc vào năm 2003.

    Tượng thờ Thầy Chu Văn An ở Văn miếu Quốc tử giám

    b/ Tiều ẩn cổ bích – Đền thờ Thầy Chu Văn An (Phượng Sơn Linh Từ)
    Đền thờ thầy Chu Văn An tọa lạc trên núi Phượng Hoàng. Còn được gọi là “Phượng Sơn linh từ”. Đền đ­ược xây dựng trên một thế đất cao, rộng và linh thiêng. Đền được xây dựng theo thuyết phong thuỷ của ng­ười x­ưa, phía tr­ước có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phư­ợng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì lân và núi Phượng Hoàng nh­ư sải cánh của con chim ph­ượng.

    Đền thầy Chu Văn An kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, dựa theo kiến trúc thời Nguyễn, chồng diêm hai tầng tám mái. Nghệ thuật trang trí của đền theo đề tài tứ linh, tứ quý: long, ly, quy, ph­ượng, tùng, cúc, trúc, mai. Các bức y môn sơn son thiếp vàng trang trí theo hình t­ượng: rồng chầu hoa cúc mãn khai.

    Đền thờ Chu Văn An gồm năm gian tiền tế và một gian Hậu cung. Có 5 ban thờ: Phía trong Hậu cung đặt tượng thờ thầy giáo Chu Văn An, t­ượng bằng đồng, nặng 100kg trị giá 79 triệu đồng do ĐH Kiến trúc công đức, trên là bức đại tự với hàng chữ “ Vệ dực chính đạo”. Ban tiếp theo là thờ gia tiên họ Chu, bên trên có bức đại tự “ Chính học thuần hành”. Ban chính giữa là ban công đồng, có 3 bức đại tự: Bức ở giữa “ Chấn phấn Nho học”; bức bên trái là “Minh thánh đạo”; bức bên phải là “Nhân trí dũng” và toàn bộ hoành phi câu đối ca ngợi đức độ của thầy Chu Văn An. Ban phía bên tay phải từ trong ra là ban thờ học trò thầy Chu Văn An, ban bên trái thờ Sơn thần Phượng Hoàng.

    Kiến trúc giai đoạn một bao gồm các hạng mục công trình: đền chính, sân thượng, các bậc đá, hai đuôi rồng đá, sân chung với hai nhà giải vũ, sân hạ và hai nhà bia. Đặc biệt hai rồng đá kiến trúc theo kiểu rồng thời Trần chắc, khoẻ, các bậc đá đều xây dựng theo kiểu thất trảm sớ ( có 7 bậc).

    Lăng mộ Thầy tọa lạc trên mỏm núi Ph­ượng Hoàng giữa rừng thông bát ngát, cảnh quan thiên nhiên khu lăng mộ thầy Chu Văn An khá đẹp.

    Di tích đền thờ thầy giáo Chu Văn An đ­ược khôi phục, tôn tạo lại vào năm 1997, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân xa gần cũng như­ giáo giới trong cả n­ước . Kiến trúc xây liền khối theo hình chữ nhật theo h­ướng Đông Nam. Trang trí mỹ thuật chính tập trung khắc hoạ hình t­ượng: Cuốn sách và giải bút nhọn thể hiện cho đức nghiệp thanh cao, trong sáng vì sự nghiệp giáo dục đất nư­ớc của thầy Chu Văn An.

    Điện Lưu Quang nằm bên phải đền về phía tây – tương truyền là nơi Thầy dạy học khi về núi Phượng Hoàng.

    Phong tục - Lễ hội: (Theo âm lịch)
    Đền thờ thầy Chu Văn An đã trở thành một địa chỉ tâm linh cho các thầy cô giáo, các em học sinh và nhân dân cả nước. Vào những ngày lễ du khách về chiêm bái đền Thầy rất đông. Nhiều sở giáo dục, phòng giáo dục, nhiều trường đến đền Thầy làm lễ dâng hương, phát thưởng, xin chữ thánh hiền cho giáo viên và học sinh.
    - Lễ hội mùa xuân: diễn ra vào tháng Giêng
    - Lễ hội mùa thu: diễn ra vào tháng 8 – mùa khai giảng. (lễ chính ngày 25 tháng 8 – Sinh nhật Thầy)
    - Lễ hội Về Nguồn: diễn ra vào 26 tháng 11 – tưởng niệm ngày mất của Thầy.
    - Trước khi vào mùa thi khách đến lễ Thầy xin lộc thi cử rất đông
    - Những năm gần đây, Ngày 20 – 11, rất nhiều du khách đến dâng hương Thầy.


    Đền thờ Thầy Chu Văn An ở núi Phượng Hoàng

    c/ Đền thờ Thần hoàng làng
    Tại huyện Thanh Trì, Hà Nội danh nhân Chu Văn An được thờ chủ yếu ở xã Thanh Liệt và xã Tam Hiệp. Xã Thanh Liệt có 2 di tích thờ thầy Chu Văn An là đền Chu Văn An và miếu Thổ Kỳ thờ thầy Chu Văn An và thân mẫu.

    Xã Tam Hiệp cũng có 2 di tích thờ thầy Chu Văn An là chùa Huỳnh Cung và đình Huỳnh Cung xây trên nền ngôi trường xưa kia mà thầy mở ra để dạy dỗ học trò. Bên cạnh huyện Thanh Trì ở Hà Nội còn có chùa Hương Viên nằm góc ngã tư giao nhau giữa phố Lò Đúc và phố Trần Xuân Soạn, quận Hai Bà Trưng thờ thầy Chu Văn An như vị Thành hoàng làng...

    Sau khi thầy Chu Văn An qua đời các học trò trước đây của thầy đã cùng nhau lập nên đền thờ thầy ở ngay chính ngôi trường cũ tại Huỳnh Cung. Bên cạnh bài vị thờ công, triều lệ còn đặt bài vị của 61 văn thân ở huyện Thanh Trì

    Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi đình đã bị phá huỷ hoàn toàn, nền móng của đình vẫn còn một trụ cột, rùa đá, bia đá. Dân làng còn cất giữ được đồ thờ thầy Chu Văn An như: 2 mũ cánh chuồn, 1 dải áo, 1 áo long cổn, 1 áo thụng hồng, 1 đôi hài, 1 ngai thờ, 1 trùy đồng, 6 sắc phong, một cuốn thần tích được lập từ thời Lê Hồng Đức. Tất cả đều là nguyên bản. Nhân dân Huỳnh Cung đã tu sửa ngôi đình xứng đáng là nơi lập nghiệp của danh nhân văn hoá Chu Văn An, người con của quê hương Thanh Liệt, Thanh Trì.

    Tại quê hương thầy ở thôn Văn có đình thờ thầy gọi là Đình Nội. Ban đầu đình vốn là một ngôi đền cổ, đến thời Lê Trung Hưng trở thành văn chỉ làng Thanh Liệt thờ các vị khoa bảng của làng Thanh Liệt. Theo bia “Tiên hiên bi kí” dựng năm Ất Dậu niên hiệu cảnh Hưng (1765) thì đình Nội ban đầu thờ thầy Chu Văn An và tằng tôn của thầy là Chu Đình Bảo, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Giáp Thìn (1484). Văn chỉ cũng thờ con trai thầy Chu Văn An là Chu Tam Tỉnh thi đỗ khoa Ngự thí năm Tân Hợi, làm quan đến chức Hàn lâm trực học sĩ, tả hình viện đại phu và Lí Trần Thản, thi đỗ tiến sĩ khoa Ất Sửu, làm quan đến chức Tả tư giảng, sau khi mất được truy tặng Binh bộ thượng thư.

    Đền thờ thầy Chu Văn An được dựng ngay sau khi thầy mất thời Trần. Do đình nằm trong khu đất hẹp nên vị tú tài người làng là Vũ Huy Diệu đã cùng dân trong làng chọn nơi thoáng rộng, (khu vực hiện nay) để xây lại.

    Đền thờ thầy Chu Văn An có hình chữ công với 3 nếp nhà tiền tế rộng 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì làm kiểu vòm bán nguyệt. Hậu cung gồm 3 gian nhỏ, vì làm kiểu “chồng giường, giá chiêng”, mặt bằng theo kiểu 4 hàng ngang, vì làm kiểu “chồng giường”, chạm khắc hình tứ linh, tứ quý.

    Đền thờ thầy Chu Văn An đã được Bộ Văn hóa. Thông tin xếp hạng di tích văn hóa lịch sử ngày 21.1.1989.

    Vị Thành hoàng làng – nơi gửi gắm ước mơ học hành của bao đứa trẻ học trò
    Lâu nay, nói đến phố Lò Đúc, là nhiều người nghĩ đến con phố nhỏ êm đềm có những hàng cây sao cao vút, tán lá giao nhau, là nơi trú ngụ lý tưởng của những đàn cò. Ở phố Lò Đúc còn có một di tích gắn liền với lịch sử phát triển của phố là chùa Tổ Ong (tên chữ là Linh Ứng Tự) thờ Nguyễn Minh Không, ông tổ nghề đúc đồng.

    Cũng tại chùa Tổ Ong còn có tấm bia thời Tự Đức (1857) cỡ 1x1,7m, diềm bia trang trí hoa cúc, dây leo. Bia có tên “Ký sám hối gia tiên bi ký” (bia ghi việc gửi giỗ cho gia tiên) có 1.300 chữ Hán, khắc theo thể chữ chân, sắc nét và còn nguyên vẹn.
    Tại sao đang nói về thầy Chu Văn An lại nói về chùa Tổ Ong và tấm bia “Ký sám hối gia tiên bi ký” ở đây, bởi tấm bia đã cung cấp một số địa danh như phố Tràng An, phố Phương Viên (gọi theo tên làng cổ Phương Viên) mà nay khi làng trở thành phố đã không còn.

    Làng cổ Phương Viên không còn, nhưng chùa Đức Viên (tên chữ là Hồng Đức Tự) vốn là một ngôi chùa của thôn Hương Viên (sau đổi thành Phương Viên rồi Đức Viên) thì vẫn còn. Thôn này vốn thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội; được thành lập từ đầu thế kỷ 19 dưới triều vua Minh Mệnh.
    Chùa nằm trải rộng ở diện tích góc ngã tư giao nhau giữa phố Lò Đúc và phố Trần Xuân Soạn, nhưng cổng chùa hiện nay mở ra phía đầu phố Trần Xuân Soạn, gần ngay phố Lò Đúc. Các cụ già ở đây kể lại, xưa kia đối diện cổng chùa (tức đầu ngã ba phố Lê Ngọc Hân — Trần Xuân Soạn) xưa kia có ngôi đình làng Phương Viên, bên trong thờ thầy Chu Văn An.

    Đình này bị dỡ bỏ vào thế kỷ 20 dưới thời Pháp thuộc, bài vị cùng nhiều đồ tế khí được nhân dân đưa sang chùa để tiếp tục thờ. Hiện nay, hệ thống tượng tròn trong chùa Đức Viên gồm trên 50 pho. Đáng chú ý là các bộ tượng Tam Thế Phật, A Di Đà Tam tôn, Tứ Thiên vương…. Tại tiền đường còn có một ban thờ danh thần Chu Văn An như Thành hoàng làng Phương Viên và nhà chùa còn lưu giữ được một bản thần phả sao chép sự tích về ngài.

    Người viết bài này là cư dân của khu phố Lò Đúc – Trần Xuân Soạn – Lê Ngọc Hân đã lâu và từ nhỏ đã quen nghe tiếng chuông chùa Đức Viên ngân nga, đã quen vào các ngày sóc, vọng hoặc trước kỳ thi được người lớn dẫn đến chùa thắp hương trên bàn thờ “Đức Thánh Chu” theo cách gọi của người dân trong phố, để xin thầy giáo Chu Văn An phù hộ cho sở học thông suốt, sáng láng.

    Lớn lên chút nữa, có ý thức tìm tòi, đi hỏi người già rồi cả sư cụ trụ trì rằng vì sao danh sư Chu Văn An lại trở thành Thành hoàng làng của làng Phương Viên xưa, mỗi người lý giải một kiểu nhưng đều chung một ý rằng nơi đây là trang ấp mà thầy được nhà vua ban cho làm nơi ở trong thời gian thầy ra kinh đô giữ chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám trong gần 30 năm. Tiếc rằng, bản thần phả sao chép sự tích mà chùa còn lưu giữ cũng không nói gì đến lý do vì sao thầy được dân thờ như Thành hoàng làng…

    Lịch sử vốn vậy, luôn chứa trong mình những bí mật, để ngàn đời sau hậu thế vẫn mãi đi tìm và ngưỡng vọng. Chỉ biết rằng người viết bài này cũng như rất nhiều lớp lớp trẻ con đã sinh ra và lớn lên trong đất làng Phương Viên xưa đều có chung một niềm tự hào rằng Thành hoàng làng mình là danh sư Chu Văn An, là “Vạn thế sư biểu – Người thầy tiêu biểu của muôn đời” của dân tộc Việt Nam.

    Để mỗi khi đến chùa thắp hương lạy Phật, cúi đầu trước bàn thờ danh sư, ra về lại được cụ trù trì tặng cho cây bút “lộc của thầy giáo”. Có lẽ rằng đây cũng là một trong số ít ngôi chùa, nếu không nói là độc nhất ở nội thành Hà Nội chia lộc bằng bút thay cho cỗ oản đỏ. Để rồi cây bút đó đã theo bao đứa trẻ viết nên ước mơ học hành, đỗ đạt ở đời…

    d/ Ngoài ra còn có ban thờ thầy Chu Văn An ở 27 xã có môn sinh của Thầy

    3/ Giai thoại về Thầy Chu Văn An
    a/ Huyền thoại về thầy Chu Văn An: Dạy học cho con trai Thủy thần
    Khi thầy Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu, thầy bèn cho người dò xem thì trò đó cứ đến khu đầm Đại là biến mất. Thầy biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong thầy tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: “Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho”. Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Thầy được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Đây là một giai thoại về Thầy để nói rằng tài đức của thầy có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của thầy lúc đương thời là rất lớn.

    b/ Dâng thất trảm sớ
    Thời vua Trần Dụ Tông là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần, và cũng chính lúc này thầy Chu Văn An dâng Sớ xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên gian thần, để mong cứu vãn nhà Trần. Tuy chính sử không nêu rõ , cho đến nay nội dung tờ sớ đó không ai biết nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng nhiều.

    Theo cuốn "Vương triều sụp đổ", tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ - 2006, thì bảy tên gian thần bị thầy Chu Văn An xin nhà vua xử trảm, như sau:
    1. Hoạn quan chi hậu cục Mai Thọ Đức, kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân. Để nhiều người chết trẻ, chết già vì mòn mỏi trong cung thất; lại bày ra các trò dâm ô trác táng dẫn Hoàng thượng vào con đường vô đạo.

    2. Trâu Canh, viên ngự y phạm tội làm cho Hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi, lại bày trò phục dương cho bề trên khi 15 tuổi. Y đã bắt cóc 21 đứa trẻ khỏe mạnh con nhà lương dân, giết đi lấy mật làm thang cho bài thuốc hồi dương của quan gia. Rồi y bày trò cho quan gia thông dâm với chị ruột mình, nói là phương thuốc chữa trị.

    Trong khi chữa trị cho quan gia, y lại thông dâm với cung nhân của chính quan gia. Trâu Canh là người Hán, cháu nội Trâu Tôn đi theo quân nhà Nguyên vào xâm lược Đại Việt, năm Ất Dậu (1285) thất trận bị quân Đại Việt bắt, y đã xin hàng, lại xin được cư trú. Nay Trâu Canh lộng hành, dẫn dắt đức vua vào con đường thương luân bại lý.

    3. Bùi Khoan, Chính chưởng phụng ngự. Y bày trò cờ bạc rượu chè dơ dáy ngay trong cung thất, dẫn đức vua vào mê lộ, bê tha như đám dân đen ngu muội.

    4. Văn Hiến hầu can tội gây bè đảng khiến các đại thần chia rẽ, ngờ vực lẫn nhau, làm cho đức vua khó phân biệt người ngay kẻ nịnh.

    5. Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương, xảo trá, dẫn vua vào con đường ăn chơi xa xỉ, tới cạn kiệt quốc khố.

    6. Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu đồng lõa với Nguyễn Thanh Lương tìm đủ mọi cách tăng thu thuế khóa, tăng các sắc thuế từ thượng cổ chưa từng có, để bòn rút của dân, lấy tiền chi vào các cuộc ăn chơi trác táng của hoàng thượng. Kể cả những năm mất mùa đói kém, dân chết đói đầy đường, chúng cũng không tha giảm.

    7. Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự, bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí đã cũ hỏng vẫn không chịu thay thế, để lấy tiền công bỏ túi. Y sao nhãng việc luyện tập canh phòng biên cương phía Bắc, phía Nam gần như bỏ ngỏ. Hiện thời Chiêm Thành đang ráo riết nhòm ngó miền châu Hóa.

    Lũ gian thần này mượn danh Hoàng thượng để làm các việc, mà nhìn bề ngoài thiên hạ cứ ngỡ là chúng làm vì Hoàng thượng. Nhưng kỳ thực, các khoản chi tiêu cho Hoàng thượng chỉ một phần, còn vào túi chúng tới chín phần.

    Vì vậy thầy giáo Chu Văn An sau khi vạch tôi đã viết, “Để giữ nghiêm phép nước, nối dòng đại thống từ Thái tông cao hoàng đế tới nay, xin bệ hạ cho chém đầu bảy tên gian thần trên, và tịch thu sản nghiệp của chúng, sung quốc khố, để làm gương răn đe kẻ khác".

    Dù chỉ là huyền sử nhưng với những tên người cụ thể, với những cáo trạng như vậy cũng là một “giải mả thú vị”, thoả mãn lòng dân.

    Điều quý hơn hết là dân ta đã một lòng ca ngợi và xem thầy như sao Đấu, sao Khuê, Cao Bá Quát cũng từng viết:
    "Thất trảm yêu ma phải rợn lòng Trời đất soi chung vầng hào khí Nước non còn mãi nếp cao phong"

    c/ Đất nước ghi nhận

    • Đối với lịch sử nước nhà: Thầy được người đời dành tặng danh hiệu cao quý “Vạn thế sư biểu”.
    • Đại Việt Sử ký toàn thư đánh giá thầy là Ông tổ của các nhà nho nước Việt.
    • Thầy Chu Văn An được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”.
    • Nhiều đường xá, trường học được đặt theo tên gọi của thầy “Chu Văn An”
    • Để ghi nhận công đức của Thầy Chu Văn An, nhiều nơi trên cả nước đã đặt đền thờ Thầy.


    4/ Những thông tin về Thầy Chu Văn An từ Khí công Tâm linh
    - Thầy Chu Văn An là người thầy đầu tiên đã độ trì dạy bảo thầy Huệ Tâm trong nhiều kiếp, đã độ trì dạy bảo thầy Huệ Tâm rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Thầy Chu Văn An là người có rất nhiều kỉ niệm đẹp với thầy... “Có lần thầy lên làm việc ở núi Phượng Hoàng xong, hơn bốn giờ chiều thầy xin Thầy Chu Văn An cho thầy sang ngủ bên Côn Sơn, Thầy Chu Văn An nói: “Thôi đã lên đây thì ở đây ngủ với Thầy một đêm”…Thầy NQT súc động nói nhỏ lại: “Chỉ có Cha mới nói với con như vậy!”.

    Tại ngày lễ kỷ niệm Thầy Chu Văn An về trời năm 2020, Thầy Chu Văn An cũng đã dành câu nói rất tình cảm cho Thầy Huệ Tâm “Ta tự hào vì có một người trò như con. Ta tự hào vì có một người Thầy như con”

    Một số điều ghi trong nhật ký của thầy Huệ Tâm (nguồn: KCTL)

    Ngày 26/06/GT(11/08/04)
    * Thầy Chu Văn An nhập vào cô Sở để nói với thầy Nguyệt Quang Tử:
    “Ta sẽ truyền Đạo cho con và dạy con làm thuốc chữa bệnh.”

    Ngày 03/11/GT (14/12/04)
    * Thầy Chu Văn An dạy trận…rồi Thầy nói:
    “Con phải viết lại các sự tích và hiểu biết về Bát Cổ”.

    Ngày 01/03/AD (09/04/05)
    Một Phượng Hoàng cặp một thanh đoản kiếm ở mỏ đem về đưa cho tôi. Tôi biết ngay đây là kiếm thầy Chu Văn An giao cho nên tôi nói:
    - Bây giờ con có rất nhiều Kiếm, con không nhớ được là con có bao nhiêu kiếm và khi cần dùng thì gọi kiếm gì vào lúc nào!
    Thầy gửi mấy chữ về: Đây là
    “Vạn Kiếm quy Tâm”. Tôi ngộ ra rằng, “bao nhiêu kiếm cũng không quan trọng, dù có là vạn kiếm thì khi cần dùng kiếm nào đều do tâm tôi quyết định tất cả”.

    Ngày 26/05/AD (02/07/05)
    * 13h30 tôi có mặt ở Đền thờ Thầy Chu Văn An
    Quì trước Thầy tôi nói:
    - Hôm nay Nguyệt Quang Tử xin đem roi về quỳ dưới chân Thầy để nhận tội vì chỉ sau một thời gian ngắn con đã để lớp học của con xảy ra nhiều chuyện xấu.
    Thầy đánh tôi ba roi, nói một câu Thầy lại đánh tôi một roi:

    - Roi thứ nhất là để thể hiện sự nghiêm khắc.
    - Roi thứ hai là phạt về tội quá tin học trò.
    - Roi thứ ba là để ghi nhớ đây là một bài học.


    * 14h15 tại Linh mộ Thầy:
    - Tôi kêu ca, phàn nàn với Thầy về việc không nhìn, không nghe được.
    Thầy nói:
    “Còn phải mất một thời gian dài nữa, thay mới đường Chẩm - Ấn cho con thì chưa được, mà sửa lại thì cũng khó!”

    Nói xong Thầy đọc tặng tôi bài thơ:

    THIÊN BẢO
    Ơn Cha, nghĩa Mẹ, công Thầy
    Nguyệt Quang Tử đã từ đây trưởng thành
    Ánh dương soi tỏ công danh
    Cứu dân giúp nước tiếng lành vang xa

    Ngày 19/10/AD (20/11/05)
    Khi đi chúc mừng Thầy nhân ngày 20/11, Thầy Chu Văn An nói với Nguyệt Quang Tử: “Thầy muốn anh Hòa dạy học trò, các con và tất cả những người cấp dưới hãy đi đúng con đường mà mình đang đi. Còn những người đi sai đường không những không phải học trò của ta mà Thầy cấm không được nhắc đến tên Thầy . Thầy định không nói nhưng là ngày vui nên phải nói, lớp học trò này đạt thành công quá mức so với yêu cầu. Kể cả người thực và người phần linh rất xuất sắc. Thầy nghĩ rằng không ngờ lại có thể làm được như vậy”.

    Ngày 07/04/BT (04/05/06)
    Tại vườn hoa khu chung cư Linh Đàm.
    Nguyệt Quang Tử nói với Thầy Chu Văn An:
    - Thưa thầy cho đến nay con vẫn không nhìn được, tại sao lại như vậy? Con sẽ xin từ chức!…

    Thầy Chu Văn An nói:

    - Người trần hay có tính kiêu căng…Nếu con xin từ chức thì do con quyết định. Việc của con không ai có thể làm thay được…Nếu con nghỉ thì có khi ta cũng phải nghỉ…Đúng là việc con không nhìn thấy được là do phái tà nó phá quá nặng “Con bị tàn phế hơn cả những người tàn phế”. Con làm việc được, kể cả con còn tồn tại được ở đời thực là nhờ ở tâm con sáng. Có thể không bao giờ con nhìn được!

    Nguyệt Quang Tử nói:
    - Con xin lỗi các Thầy, các vị bề trên. Con đã biết rõ như vậy thì con xin hứa: “Bằng chính sự tàn phế của con, con sẽ chứng minh cho phái tà biết, không một sức mạnh nào, không một sự tàn phá nào có thể cản được con đi trên con đường đã chọn”.

    Thầy Chu Văn An nói:
    - Ta biết con không bỏ chúng ta mà… Con cởi áo ra.
    Khi Nguyệt Quang Tử cởi áo ra Thầy Chu Văn an đã dùng một cái bút lông to, từ trên không Thầy viết một chữ
    “Tâm” rất to lên ngực Nguyệt Quang Tử.

    Ngày 05/01/2005

    * Lúc 9h30’.
    Đi Côn Sơn cùng Phan Thay (26/11 là ngày giỗ Thầy).

    * Lúc 14h - ở Đền Thầy Chu Văn An.
    Thầy dạy:
    - Chỉ tổ chức buổi lễ giỗ Thầy đơn giản thôi.
    - Thầy giao cho Nguyệt Quang Tử dạy một lớp học trò, Thầy nói:.

    “Dạy học trò phải cho học lễ trước, dạy có bài bản thứ tự từ dễ đến khó…”

    - Thầy cho một phương tiện để đọc sách: Nhật Nguyệt Quang Thư.
    Khi đọc sách mà dùng Nhật Nguyệt Quang Thư thì các trang sách cứ lật ra liên tiếp cho đến hết còn nội dung thì bắn thẳng vào não bộ. Pháp bảo này có thể đọc được mọi loại chữ và cách làm việc giống như nhập dữ liệu vào máy tính.


    - Xong việc Thầy dặn lên linh mộ ngay, có việc.

    Lên đến linh mộ thì gặp Ông Định và Ông Duyệt đã ở đó.
    - Một góc mộ bên trái phía trước có một ổ tà: Khí đen tụ về đấy và đất thực cũng đã bị sụt một ít. Nguyệt Quang Tử đã dùng linh quang đuổi tà đi, rồi đắp lại đất. Bọn tà bỏ chạy làm tắt luôn 5 nén hương đời thực vừa mới thắp, chúng vừa chạy vưà đánh vào vía học trò đang đi cùng, học trò phải chạy lại vây quanh Nguyệt Quang Tử.


    - Ông Định nói Thầy Chu Văn An mới dạy:
    a/ Dùng mật gấu trắng Bắc Cực nhỏ vào vùng bệnh (đã bị làm rỗng) để tạo môi trường cho tế bào phôi và gen mới phát triển thật nhanh điền đầy vùng rỗng. Thay thế ở vùng nào thì phải điền tế bào phù hợp
    với vùng ấy.
    b/ Hai ngón giữa để lên 2 huyệt Đầu Duy, bàn tay để ngửa. Thanh Long thần xuất hiện ở lòng bàn tay trái, Phượng hoàng xuất hiện lòng bàn tay phải. Long + Phượng phun châu nhả ngọc vào Hạch Tùng.

    - Khi những người học trò, những người bệnh nhân, bạn bè, anh em trong thế giới trần tục đã góp tiền giúp đỡ thầy Huệ Tâm xây dựng một Ngôi nhà chung của Môn phái Khí công Tâm linh thuộc Thiền phái Trúc lâm Yên tử đặt tại Linh địa Côn Sơn thì Thầy Chu Văn An là người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng phong thủy cho Ngôi nhà này. Khi Thầy Huệ Tâm làm bàn thờ cho Ngôi nhà chung, về cơ bản bàn thờ này do thầy Chu Văn An thiết kế Thầy cho kích thước về độ dài, rộng bao nhiêu, bố trí trên bàn thờ như thế nào. Riêng chiều cao thì Thầy Chu Văn An bảo Thầy NQT tính như thế nào cho hợp lý.

    - Để chuẩn bị cho Lễ bốc bát hương vào sáng ngày 20/9/2015(tức ngày 8/8 âm lịch năm Ất Mùi), vào đêm 19/9/2015 (tức ngày 7/8 âm lịch), Thầy Chu Văn An đã trực tiếp giao "Linh Văn" để Thầy NQT dùng Linh thần bút khắc toàn bộ Linh Văn này lên Ngôi nhà chung.

    - Thầy Huệ Tâm đã có thơ tặng Thầy Chu Văn An
    PHI THUYỀN ĐANG BAY
    (Kính tặng thầy Chu Văn An)

    Nhớ buổi ấy con về nơi Linh mộ,
    Được nghe Thầy kể chuyện ngày xưa:
    “Thuở hai đứa chúng bay còn để chỏm,
    Nhà thì nghèo chỉ cơm với tương dưa
    Có những hôm nắng nóng giữa buổi trưa,
    Cả hai đứa trốn đi trèo ổi.
    Nghe Thầy gọi, lòng run, chân bước vội…
    Thầy đã mắng: “Hai đứa bay có tội”
    Thước kẻ dài vụt xuống bốn bàn tay…
    Nước mắt rưng rưng con chẳng dám nghĩ sai,
    Chỉ ân hận đã để Thầy khiển trách.
    Đánh xong rồi, Thầy đưa cho quyển sách,
    Hai đứa theo Thầy đến lớp học văn.
    Lịch sử nước nhà, lịch sử nhân gian,
    Tròn xoe mắt uống lời Thầy từng chữ…”
    Lời Thầy dậy các con phải nhớ:
    “Văn võ song toàn đền nợ nước non.”
    Dòng suối nhỏ từ Phượng Hoàng sơn,
    Theo sông lớn đi ra biển cả.
    Bước lên thuyền lòng vui khôn tả,
    Vượt trùng dương lên cả không trung.

    Thấm thoắt thế mà đã mấy trăm năm,
    Thần Y Dược vẫn dõi theo từng bước.
    Thủy Cốc Tiên Sinh mới vừa đây còn nhắc:
    “Các con từ một gốc sinh ra,
    Phải yêu thương chung sống hiền hoà,
    Cùng tu luyện, cùng giúp nhau tiến bộ.”

    Lời Thầy dạy chúng con vẫn nhớ,
    “Văn võ song toàn đền nợ nước non.”
    Đến hôm nay đường đã mở thênh thang,
    Lòng đã nguyện: Chỉ con đường Chính đạo
    Trí Huệ – Từ bi, phá tan cường bạo
    Diệt ác, trừ gian, khuyến tạo thiện căn.
    Thế giới vô biên nào có vách ngăn,
    Ngoài Tổ Quốc, con còn nhân gian bè bạn.
    Xa hơn nữa là không gian vô hạn,
    Linh Ngọc dẫn đường chỉ lối con đi.
    Giữa “hố đen” đâu có sợ hiểm nguy,
    Thiên Vương Kiếm cắt nó ra từng lớp.
    Ai có biết trong lòng cái ác,
    Điểm sáng còn đây, mầm thiện vẫn còn.
    Thái Cực Đồ quay trong không gian,
    Xoáy vào giữa, nhân mầm non lên mãi.
    Cứ nhân lên sinh thành Bát Quái,
    Thành công rồi trắng đã thắng đen.
    Trên phi thuyền đi tuần tiễu không gian,
    Có Linh Ngọc dẫn đường đi phía trước,
    Thánh Mẫu và Đức Mẹ cùng giơ tay ban phước
    Có cả hai ông dáng quắc thước, đang cười.
    Từ rất xa con đã nhận ra rồi,
    Ông Ké già và Huyền đô cung Lão Tử.
    Đây lời dậy của Quang Minh sư phụ
    “Nhiệm vụ nặng nề, phải cố gắng nghe con.”
    Phi thuyền Vòng đang bay trong không gian,
    Mà phía trước là sắc vàng chói lọi.

    - Thầy Huệ Tâm kể có lần lên núi Phượng Hoàng làm việc mấy ngày , khi từ Côn Sơn sang núi Phượng Hoàng, Thầy nói với Thầy Chu Văn An: "Con chào Thầy, chúng con về". Thầy Chu Văn An chỉ tay lên sườn núi rồi nói: "Con lên tát giếng đi", mặc dù hôm đó trời còn lạnh nhưng Thầy Huệ Tâm vẫn vâng lời Thầy Chu Văn An và lên núi tát giếng. Thầy cùng với H. (là học trò đi cùng Thầy hôm đó) đi lên núi và bắt đầu múc từng gàu nước từ dưới giếng lên để thau rửa giếng, đến khi xong việc, Thầy Chu Văn An nói: “Từ nay trở đi, con không cần phải lên núi để lấy nước mắt Phượng Hoàng nữa, mà hễ khi nào con muốn, con cứ cầm vào cốc nước và nghĩ là chuyển thành nước mắt Phượng hoàng thì lập tức cốc nước ấy sẽ là nước mắt Phượng hoàng".

    - Đền thờ Thầy Chu Văn An là một trong 8 Bát cổ và là thứ tự thứ 2 phải đi trong danh sách 8 Bát cổ. Đền thờ Thầy Chu Văn An có tên là Tiều ẩn cổ bích. Thầy Huệ Tâm khi tìm về Bát cổ đã có thơ rằng:
    Cổ bích ông tiều ẩn nơi đây
    Phượng hoàng đứng đó dưới trời mây
    Sớ dâng thất trảm lòng chưa trọn
    Vạn năm cùng với nước non này.

    - Khi thắp hương chúng ta khấn Thầy Chu Văn An thì phải khấn đầy đủ là: "Thần Y Dược - Tôn Sư Đại Học Sĩ - Tư Nghiệp Quốc Tử Giám - Thủy Cốc Tiên Sinh - Bát Cổ Nhị Hoàng Hoa". Khoảng 700 năm sau khi nghỉ việc triều chính, Thầy Chu Văn An không tham gia chính quyền tâm linh nữa; nhưng khi học trò là Thầy NQT khẩn khoản mong Thầy giúp đỡ thì Thầy Chu Văn An đã làm Hiệu trưởng Đại học Huyền Tâm; khi công việc bộn bề Thầy lại tham gia chính quyền và hiện tại Thầy Chu Văn An đang đứng đầu Thần giới.

    - Thầy Chu Văn An chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Minh Phật

    - Trong không gian Thầy Chu Văn An không chỉ là một nhà giáo mà thầy còn là một thần y.

    - Hiện tại thầy còn đảm nhiệm thêm việc dậy lớp học trò Linh Tâm Hội Tụ. Ngày 19/6/2014 lúc 16h25 khi các con lớp Linh Tâm Hội Tụ dâng hương tại Nhật Quang Điện Thầy Chu Văn An đã về, Thầy dậy:“ Hôm nay ta thay lời của Thầy Huệ Tâm, muốn nói với các con: Đã là Thầy thì muôn đời vì Trò, đã là Trò thì phải muôn đời kính Thầy. Các con chỉ học “chữ Kính – chữ Nghĩa” như vậy là đủ. Học được hai chữ ấy thì thành người rồi. Đợt này cứ vừa học, vừa chơi như thế nhé. Ta chỉ dậy như vậy!”

    - Ngày 26/11 âm lịch hàng năm, Thầy Huệ Tâm đều cho tổ chức kỷ niệm ngày Thầy Chu Văn An về trời.



    Dâng hương kỷ niệm ngày Thầy Chu Văn An về trời tại NNLĐ(NA:KCTL)





    Nhật Nguyệt Linh Đường (NA: KCTL)

    ./.

    /
    Lần sửa cuối bởi Vidieu, ngày 28-06-2021 lúc 06:48. Lý do: Sửa lỗi chính tả

  6. 16 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Vidieu

    bần tăng (26-06-2021),hiepqf3 (27-06-2021),Hương Nhu (26-06-2021),Lê Minh (26-06-2021),manhtuongngo (26-06-2021),Mùa Xuân Đến (28-06-2021),Ngoạn Hiền (29-06-2021),NguyetQuangTu (26-06-2021),PhongThuyGia (26-06-2021),phuongpham (18-07-2021),Phương Nam (27-06-2021),tanrau (27-06-2021),theoThầy (26-06-2021),Trần Kim Cương (27-06-2021),TuMinh (26-06-2021),youme (26-06-2021)

Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •