Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 13

Chủ đề: Viết Về Bát Cổ

  1. #1
    Ngày tham gia
    Apr 2010
    Bài viết
    1,159
    Cảm ơn!
    4,606
    Thanked 42,548 Times in 1,226 Posts

    Mặc định Viết Về Bát Cổ

    Tôi có vài ý kiến với các bạn như sau :
    -Những người tham gia vào mục “ VIẾT VỀ BÁT CÔ ” nên đi theo hướng như thế này :
    1/ Tùy điều kiện của mình nếu tìm hiểu thêm được thông tin về ai thì viết về người đó.Không nhất thiết phải viết dài,không nhất thiết phải tìm đủ thông tin về cả 8 vị Bát Cổ và 2 vị Bồ Tát, mà chỉ cần thông tin phong phú và chính xác.
    2/ Nếu những thông tin đã được đăng rồi mà trùng hợp với thông tin mình biết thì thôi không đăng nữa.
    3/ Những thông tin cần tìm hiểu là :
    + Thân thế sự nghiệp của mỗi vị Bát Cổ.
    + Sự tích các ngôi đền thờ Bát Cổ.
    + Giai thoại về BÁt Cổ.
    - Sau khi tập hợp được nhiều thông tin về Bát Cổ thì chúng ta sẽ chỉnh sửa lại bài “ Ai là người lãnh đạo tâm linh Việt Nam” cho thật hoàn chỉnh.Sau khi chỉnh sửa xong thì tác giả bài viết này không phải là NQT nữa mà là “ những học trò của Bát Cổ ”.
    - Ai biết nhiều thì viết nhiều,ai biết ít thì viết ít.Việc làm này có thể gọi là : Tìm đường về với Bát Cổ.BÁT CỔ
    1/ Tinh phi Cổ Tháp.
    Đây là đền thờ Bà chúa Sao sa Nguyễn Thị Duệ.
    2/ Tiều ẩn Cổ Bích.
    Đây là đền thờ Thầy Chu Văn An.
    3/ Dược viên Cổ Lĩnh.
    Đây là đền thờ Trần Hưng Đạo bên cạnh đó có một vườn thuốc mà trước kia Trần Hưng Đạo đã cho trồng .
    4/ Huyền thiên Cổ Tự.
    Đây là ngôi chùa mà trước đây Tam tổ trúc lâm đã tu luyện.
    5/ Long động Cổ Trai.
    Đây là đền thờ Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
    6/ Thượng tể Cổ Trạch.
    Đây là đền thờ Quốc phụ - Thượng tể Cổ trạch Trần Quốc Chẩn.
    7/ Kim qui Cổ Loan.
    Đây là đền thờ 5 anh em họ Vương,là 5 vị tướng dưới triều vua Lê Hoàn.
    8/ Phao sơn Cổ Thành.
    Đây là chùa Phao Sơn bên cạnh có một đền thờ Cao Lỗ Đại vương.
    Giữa tháng 11/2004 Phật Bà lại bảo :
    - Con đi Côn Sơn tìm Bát cổ,nhưng lần này con nhớ phải đi cho đúng thứ tự.
    Lần sửa cuối bởi NguyetQuangTu, ngày 25-11-2010 lúc 09:54.
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm

  2. 9 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới NguyetQuangTu

    Dieu Minh (27-12-2011),lê chí công (05-05-2014),Ngô Minh Thành (18-02-2022),thanhphong (31-07-2014),Vidieu (24-06-2021)

  3. #2
    Ngày tham gia
    Apr 2010
    Bài viết
    1,159
    Cảm ơn!
    4,606
    Thanked 42,548 Times in 1,226 Posts

    Mặc định

    tamanh
    Nhập môn Tham gia ngày: Sep 2010
    Bài gởi: 20



    --------------------------------------------------------------------------------
    Từ khi đi thực tế Bát Cổ về Tâm Anh đã tìm kiếm các tài liệu về các vị Bát Cổ, nhân đây TA xin trích tài liệu viết về Bà chúa sao sa từ trang web của Ban quản lý di tích huyện Chí Linh để mọi người có thêm thông tin.

    1. Thơ ca ngợi Bà chúa

    Người xưa ca ngợi bà như Nghiêu Thuấn trong giới phụ nữ, thần tiên trong cõi đời. Nhân dân Chí Linh còn truyền nhau bài minh viết về bà như sau:

    Lạ thay một kính chiếu ba vương,
    Kiệt Đặc, Tinh Phi vốn cố hương.
    Đẹp tuyệt trần gian, thêm sắc sảo,
    Đỗ đầu thi hội, nổi văn chương.
    Mất còn chuyện ấy, thây dâu bể,
    Mến trọng ơn này tự phấn hương.
    Gia ký hai câu còn để lại,
    Tháp hoa đầu núi mấy tinh sương.

    Đền thờ và lăng mộ bà Nguyễn Thị Duệ nay thuộc thôn Trại Sen, của xã Văn An, huyện Chí Linh. tỉnh Hải Dương.

    2. Lăng mộ:

    Theo sách “Chí Linh phong vật chí” sau khi bà chúa Sao Sa qua đời, người ta đưa hài cốt của bà về xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh an táng và trên xây một ngôi tháp bằng gạch nung vì vậy nhìn từ xa tháp có màu hồng rất đẹp, tháp có tên tự là: Tinh Phi cổ tháp.
    Tinh Phi cổ tháp bị hư hại từ đầu thế kỷ XIX. Năm 1993 nhân dân địa phương kêu gọi công đức đã khôi phục lại ngôi tháp này nhưng kiến trúc đơn giản.
    Chính vì vậy, nhằm bảo tồn và phát huy tốt giá trị của di tích nhà nước đang có phương án khôi phục lại “Tinh Phi cổ tháp” theo nguyên thể.

    3. Đền thờ:

    Từ năm 2004 trở lại đây nhận thấy tầm quan trọng của di tích, đặc biệt là về giá trị lịch sử của danh nhân. Ngày 28 tháng 6 năm 2006 UBND tỉnh đã ký quyết định số 2283/ QĐ-UBND phê duyệt dự án xây dựng đền thờ Nguyễn Thị Duệ. Dự án gồm các hạng mục: Đền chính, Tả hữu vu, Tam quan, 2 am hoá vàng và cải tạo nâng cấp Lăng mộ. Sau một thời gian ngắn thi công đến nay đã hoàn thành ba hạng mục: Đền chính, hai am hoá vàng và sân trước.

    Đền thờ Nguyễn Thị Duệ được xây dựng trên cơ sở của ngôi đền cũ trên đỉnh đồi Mâm Xôi. mặt hướng theo phía tây nam. Theo thuyết phong thuỷ thế đất của đền như viên ngọc được bao bọc bởi dãy núi Phượng Hoàng. Phía trước là một đập nước rộng mênh mang chấp chới những cánh cò, cánh vạc vào những buổi hoàng hôn đã khẳng định nơi đây quả thật đất lành.

    Đền thờ bà chúa Sao Sa kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Tiền tế ba gian hai dĩ và một gian Hậu cung. Phía sau Hậu cung là Tinh Phi cổ tháp.

    Đây là di tích được xếp hạng cấp tỉnh và được Bộ Giáo dục chăm sóc bằng việc phát tâm công đức của giáo viên, học sinh và nhân dân cả nước nói chung và Chí Linh nói riêng.

    ( Tôi chuyển bài viết của tamanh về đây cho hợp lý )
    Vui mà hành thiện,tâm con thiện
    Buồn mà hành thiện,con thiện tâm

  4. 4 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới NguyetQuangTu

    Dieu Minh (27-12-2011),lê chí công (05-05-2014),thanhphong (31-07-2014)

  5. #3
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    6
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 25 Times in 7 Posts

    Mặc định

    Thưa Chú NQT,

    Cháu chưa có cơ duyên được làm học trò của Bát Cổ nhưng cháu xin được tham gia. Bài sau đây cháu copy ở địa chỉ: http://consonkiepbac.org.vn/News.aspx?CategoryID=129.

    --------------
    ĐỀN QUỐC PHỤ


    Thượng Tể cổ trạch, tức nhà cổ của quan Thượng Tể Trần Quốc Chẩn. Nằm bên tả ngạn sông Kinh Thầy, đền Quốc Phụ thuộc thôn Nẻo, xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là một trong tám di tích thuộc “Chí Linh bát cổ” nổi tiếng được nhiều sử sách ghi nhận. Đền Quốc Phụ là nơi thờ Trần Quốc Chẩn - một trong những danh tướng kiệt xuất của nhà Trần, tài đức vẹn tròn, hết lòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

    Căn cứ các tài liệu chính sử và thư tịch cổ, Trần Quốc Chẩn là em vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Ông có công lớn cùng các tướng lĩnh nhà Trần đánh giặc Chiêm Thành, được triều đình phong chức Nhập nội Quốc Phụ Thượng tể - chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ thượng thư.

    Những năm cuối đời, Trần Quốc Chẩn cáo lão về quê sinh sống. Do mưu đồ sắp đặt Thái tử, một số gian thần đã vu khống Thượng Tể làm phản. Vua Trần Minh Tông (con rể của Trần Quốc Chẩn) đã xử ông tội chết. Đến năm Giáp Thân, tức năm Thiệu Phong thứ tư (1344), dưới thời Trần Dụ Tôn, vụ án Trần Quốc Chẩn mới được minh oan, triều đình phục chức, trả lại phẩm giá cho người đã khuất. Ghi nhận công lao của Trần Quốc Chẩn, triều đình đã giao cho bản xã sửa lại ngôi nhà cũ ở quê ông tại Kiệt Đặc, Chí Linh làm đền thờ. Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến đều ban sắc phong thần và cho phép địa phương theo trước phụng thờ, tôn vinh người có công với đất nước.

    Đền Quốc Phụ được trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào thời Lê Trung Hưng (TK 17 - TK 18) và thời Nguyễn ( TK 19). Năm 1997 - 1998, được sự quan tâm của cấp trên, UBND xã Chí Minh đã phát động công đức, huy động mọi nguồn lực tại địa phương khôi phục lại đền Quốc Phụ xứng đáng với công lao và tài đức của Thượng Tể.

    Đền Quốc Phụ được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng, nhìn về hướng nam. Theo thuyết phong thuỷ đền đặt trên thế đất có hình “kim xà” (rắn vàng), phía trước có khu Bến Đá ven sông Kinh Thầy; Bên tả là cánh đồng Lạng Trì và Ao Vả, tục truyền đây là nơi tắm gội của Quốc Chẩn; Bên hữu có cánh đồng Giảo Phướn; Phía sau là cánh đồng Đống Lăng - nơi phát hiện nhiều gạch cổ thời Trần (KT: 36 x 36 x 4 cm), nhiều khả năng liên quan tới một kiến trúc cổ thời Trần (?).Đền kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung.

    Hàng năm, đền Quốc Phụ diễn ra 2 sự lệ chính: Lễ Đại Kỳ Phước từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 3 ( âm lịch ) và lễ giỗ Quốc Phụ vào ngày 12 tháng 6 (âm lịch ). Lễ hội có rước kiệu từ các làng phụ cận về đền Quốc Phụ và tổ chức tế lễ. Không khí lễ hội vui tươi, nhộn nhịp thu hút đông đảo nhân dân thập phương tham gia.

    Hành hương về Côn Sơn - Kiếp Bạc, ghé thăm đền Quốc Phụ sẽ là dịp tri ân công đức của Người, mở mang tri thức về lịch sử, danh nhân và những huyền thoại nhà Trần trên mảnh đất Chí Linh.
    --------------

    P/S: Có thể có nhiều nguồn thông tin nhưng chúng ta cũng nên copy về đây để tiện cho việc đọc và tổng hợp sau này.
    Lần sửa cuối bởi oqmvb, ngày 26-11-2010 lúc 08:42.

  6. 3 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới oqmvb

    Dieu Minh (27-12-2011),longtadinh (03-05-2019)

  7. #4
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    6
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 25 Times in 7 Posts

    Mặc định

    VỤ ÁN TRẦN QUỐC CHẨN

    Trần Quốc Chẩn là con thứ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.(Cần phải tra cứu lại điểm này NQT). Quốc Chẩn có con gái là Hoàng hậu của vua Trần Minh Tông (1314 - 1329). Mãi đến năm 1328, do Hoàng hậu vẫn chưa có con trai nên ngôi Thái tử vẫn bỏ trống, nhiều kẻ lăm le lập con thứ của Trần Minh Tông. Vụ án Trần Quốc Chẩn vì thế mới xảy ra. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 9, tờ 26) đã chép lại đầu đuôi vụ án này như sau :

    "Trước đây, Thượng hoàng (chỉ Trần Anh Tông - ND) vẫn trông mong nhiều vào Quốc Chẩn, muốn phó thác Nhà vua (chỉ Trần Minh Tông) cho ông. Đến lúc Thượng hoàng bị bệnh, mỗi khi Nhà vua vào thăm, Thượng hoàng bắt phải cùng đi với Quốc Chẩn để khỏi sinh lòng hiềm nghi. Đến đây Nhà vua tuổi đã nhiều mà chưa quyết định được ngôi Thái tử. Quốc Chẩn tự nhận mình là cố mệnh đại thần, lại là bố đẻ Hoàng hậu, nên cố chấp là đợi khi nào Hoàng hậu sinh con trai trưởng sẽ lập làm Thái tử. Văn Hiến Hầu (con của Trần Nhật Duật, không rõ tên) muốn đánh đổ Hoàng hậu để lập Hoàng tử tên là Vượng, bèn lấy 100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, xúi Trần Phẫu vu cáo Quốc Chẩn âm mưu làm phản. Nhà vua tin lời Trần Phẫu, bắt Quốc Chẩn giam ở chùa Tư Phúc, rồi đem việc ấy hỏi thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung vốn cùng bè đảng với Văn Hiến Hầu, lại là người cùng làng với mẹ đẻ của Vượng (bà Minh Từ Thái phi, người họ Lê, quê ở Giáp Sơn), hơn nữa, Khắc Chung từng giữ chức Sư phó để dạy Vượng, vì thế, Khắc Chung liền tâu ngay bằng câu thành ngữ tróc hổ dị, phóng hổ nan (bắt hổ dễ, thả hổ nguy !). Nhà vua bèn cấm tuyệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậu phải thấm nước vào áo đưa đến cho uống. Quốc Chẩn uống xong thì mất. Những người bị bắt lây lên đến hơn hai trăm, khi tra hỏi, ai cũng kêu gào là oan.

    Về sau, vợ cả, vợ lẽ của Trần Phẫu ghen nhau, đem việc Văn Hiến Hầu đút lót vàng ra tố cáo. Nhà vua giao việc này cho quan giữ việc Hình ngục là Lê Duy xét hỏi. Lê Duy là người cương trực, lập tức tra xét ngay. Trần Phẫu phải tội lăng trì (tức xẻo thịt từng miếng cho đến chết), nhưng chưa kịp hành hình thì gia nô của Thiệu Vũ (con Quốc Chẩn) đã xẻo thịt Trần Phẫu ăn sống gần hết. Văn Hiến Hầu tuy được tha tội chết, nhưng giáng làm thứ nhân, tước bỏ tên họ trong hoàng tộc."

    Vua Minh Tông rõ chuyện ấy, lấy làm ân hận lắm, nhưng việc đã lỡ rồi, không thể nào cứu vãn được, chỉ còn biết làm thơ để tự trách mình:

    Dạ vũ
    Thu khí hòa đăng thất thự minh,
    Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh.
    Tự tri tam thập niên tiền thác,
    Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh.


    Dịch nghĩa:
    Hơi thu và ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai,
    Tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn.
    Tự biết sai lầm của ta ba mươi năm trước,
    Đành ôm sầu ngồi nghe mưa rơi.


    Vũ Minh Am dịch thơ:

    Mưa đêm
    Hừng sáng, đèn nhòa, nhạt khí thu,
    Ngoài song tàu chuối tiễn đêm mờ.
    Ba mươi năm trước ta lầm lỗi,
    Ôm nỗi hận sầu lắng tiếng mưa.


    Bài thơ này có lẽ được làm vào khoảng năm 1356, nhân dịp vua Minh Tông (lúc bấy giờ đã trở thành Thái thượng hoàng) về thăm đền thờ Trần Quốc Chẩn ở huyện Chí Linh. Mùa xuân năm sau ông từ trần. Trước đó khá lâu, năm 1329, vua Minh Tông đã nhường ngôi cho thái tử Vượng, con bà hoàng phi Lê Thị. Thái tử Vượng lên ngôi tức là vua Trần Hiến Tông (1329-1341).

    (Tổng hợp từ các nguồn trên Internet)
    Lần sửa cuối bởi NguyetQuangTu, ngày 28-11-2010 lúc 13:48.

  8. 4 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới oqmvb

    bần tăng (26-06-2021),dangthanhha (26-06-2021),longtadinh (03-05-2019),tanrau (27-06-2021)

  9. #5
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    6
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 25 Times in 7 Posts

    Mặc định

    DƯỢC VIÊN CỔ LĨNH
    Dược Viên Cổ Lĩnh (Tên trên bài gốc: Dược lĩnh cổ viên), tức Vườn cổ trên núi thuốc: Là vườn cây thuốc trên Dược Sơn - núi Nam Tào. Về phong thuỷ, đây là khu đất đắc địa có một không hai. Lúc bấy giờ Hưng Đạo Vương giao cho tướng quân Phạm Ngũ Lão tổ chức trồng cây trên núi Nam Tào để làm thuốc chữa bệnh cho quân và dân trong vùng nên gọi là Dược Sơn (Núi thuốc). Trên Dược Sơn có vườn thuốc quý, phong cảnh đẹp, đời sau gọi là Dược Viên Cổ Lĩnh. Khu vườn thuốc cổ này còn di tích đến ngày nay, trong khuôn viên trước chùa Nam Tào, thuộc khu di tích Kiếp Bạc, huyện Chí Linh.

    DƯỢC SƠN
    Dược lĩnh hoa thơm cỏ lạ nhường
    Biết chăng, chăng biết thuốc thần tiên

    Câu ca xưa để lại nói về vườn dược liệu quý được Hưng Đạo Vương cho trồng khi người về lập quân doanh ở Vạn Kiếp.
    Tương truyền vào một buổi chiều mùa xuân sau khi thăm đội thuỷ chiến luyện quân, trên đường về dinh, Hưng Đạo Vương gặp một ông già râu, tóc bạc phơ, quần vải áo thô, vai đeo túi cói đang nhanh nhẹn đi về phía núi Nam Tào.
    Nhìn tướng mạo, đi, đứng, có những điểm khác với người thường, Trần Hưng Đạo cho gia nhân mời ông già đến và nói :"Ta là Quốc công tiết chế xin hỏi : Người từ đâu đến, lên núi có việc gì ?" Ông già chắp tay vái tạ, tự xưng là lương y trong vùng vào rừng lấy thuốc về chữa bệnh. Hưng Đạo Vương rất mừng. Người đang cần một vườn thuốc tại chỗ để chữa bệnh trị thương cho quân sỹ, Người hỏi ông già về cây thuốc trong núi và địa điểm, chất đất trông cây dược liệu. Ông già thưa: Dược liệu ở núi rồng có nhiều, đất ở núi Nam Tào rất hợp với cây thuốc" và lấy ở trong bị cói một cây thuốc dâng lên :"Xin biếu Quốc công cây thuốc quý. Nói xong ông già vái tạ xin vào rừng hái thuốc.
    Về quân doanh, Hưng Đạo Vương giao cho tướng quân Phạm Ngũ Lão chỉ đạo việc trông cây thuốc ở núi Nam Tào và sức cho danh y trong nước tiuyển chọn cây thuốc về trồng trên núi.
    Tương truyền, vườn thuốc trồng được chăm bón chu đáo tốt nhanh. Cây dược liệu ông già biếu Trần Hưng Đạo, từ thân, vỏ đến lá, rễ đều chữa bệnh, trị thương rất tốt.
    Trần Hưng Đạo gọi đó là Thần Dược.
    Vườn dược liệu để lại cho đời sau nhiều thuốc quý. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp vườn thuốc bị tàn phá, hiện còn lại những cây nhỏ nhưng đều là những vị thuốc Nam quý. Vườn thuốc được xếp vào Chi Linh bát cổ (Dược Viên Cổ Lĩnh)

    (Tổng hợp từ: http://trangnguyencoduong.violet.vn/...try_id/2954331)

  10. 3 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới oqmvb

    bần tăng (26-06-2021),lê chí công (05-05-2014),tanrau (27-06-2021)

  11. #6
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    3
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 9 Times in 2 Posts

    Mặc định Viết Về Bát Cổ

    Thưa chú Nguyệt Quang Tử
    Chào anh chị em trong diễn đàn.
    Cháu mới bắt đầu tập khí công tâm linh được khoảng 1 tháng, bước đầu đã có một số cảm nhận, cháu sẽ post kết quả trong một chủ đề khác.
    Hưởng ứng chủ đề " Viết về Bát Cổ " cháu xin đóng góp chút ít về lịch sử của thiền phái Trúc Lâm và các vị sư tổ . Thông tin này cháu tìm kiếm trên mạng, chưa có thời gian kiểm chứng, mong chú và các anh chị em đóng góp ý kiến.

    Trúc Lâm Yên Tử (竹林安子) là một dòng thiền Việt Nam đời nhà Trần, do Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm cũng là hiệu của Trần Nhân Tông, đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng thiền Yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loavà Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12– đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
    Thiền phái Trúc Lâm được một vị vua nhà Trần sáng lập, được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh(1600-1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
    Sau một thời gian ẩn dật, dòng thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỉ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng.
    Sau đây là hệ thống truyền thừa trong Đại nam thiền uyển truyền đăng lục (大南禪苑傳燈錄), được Thiền sư Phúc Điền (福田) đính bản:
    1. Trần Nhân Tông
    2. Pháp Loa
    3. Huyền Quang
    4. An Tâm (安心);
    5. Phù Vân Tĩnh Lự (浮雲靜慮);
    6. Vô Trước (無著);
    7. Quốc Nhất (國一);
    8. Viên Minh (圓明);
    9. Đạo Huệ (道惠);
    10. Viên Ngộ (圓遇);
    11. Tổng Trì (總持);
    12. Khuê Sâm (珪琛);
    13. Sơn Đăng (山燈);
    14. Hương Sơn (香山);
    15. Trí Dung (智容);
    16. Huệ Quang (慧 光);
    17. Chân Trụ (真住);
    18. Vô Phiền (無煩).

    Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%...3%BAc_L%C3%A2m
    Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba củanhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trướcTrần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất tronglịch sử Việt Nam.
    Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (1258).

    Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm 1278, ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
    Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.
    Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.
    [sửa]Niên hiệu
     Thiệu Bảo (1278 - 1285)
     Trùng Hưng (1285 - 1293)

    Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm[1], Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,[2] lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.
    Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
    Tại Hà Nội có phố Trần Nhân Tông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.

    Thi phẩm
    Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần
    Xuân hiểu
    Thụy khởi khải song phi
    Bất tri xuân dĩ quy
    Nhất song bạch hồ điệp
    Phách phách sấn hoa phi

    Buổi sớm mùa xuân
    Ngủ dậy ngỏ song mây
    Xuân về vẫn chửa hay,
    Song song đôi bướm trắng,
    Phất phới sấn hoa bay.
    (Bản dịch của Ngô Tất Tố)

    Hạnh Thiên Trường hành cung
    Cảnh thanh u vật diệc thanh u
    Thập nhất tiên châu thử nhất châu.
    Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
    Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu
    Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
    Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
    Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
    Kim niên du thắng tích niên du

    Dạo chơi hành cung Thiên Trường
    Cảnh thanh u vật cũng thanh u
    Mười mấy châu tiên ấy một châu.
    Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát
    Nghìn hàng đám quít, đám quân hầu
    Trăng vô sự chiếu người vô sự
    Nước có thu lồng trời có thu.
    Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng
    Độ xưa so với độ nay thua.
    (Bản dịch Khuyết danh)

    Cư trần lạc đạo (http://vannghevietnam.vn/portal.asp?...%A2n_T%C3%B4ng)

    CƯ TRẦN LẠC ĐẠO (TRẦN NHÂN TÔNG)
    Thứ sáu, 21/11/2008 - 7:47:25 PM


    Đệ nhất hội

    Mình ngồi thành thị
    Nết dụng sơn lâm
    Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
    Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
    Tham ái nguồn dừng , chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
    Thị phi tiếng lặng , được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
    Chơi nước biếc ẩn non xanh , nhân gian có nhiều người đắc ý
    Biết đào hồng hay liễu lục , thiên hạ năng mỗ chủ tri âm
    Nguyệt bạc vừng xanh , soi mọi chỗ thiền hà lai láng
    Liễu mềm hoa tốt , ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm
    Lo hoán cốt ước phi thăng , đan thần mới phục
    Nhắm trường sinh về thượng giới , thuốc thỏ còn đam
    Sách dễ xem chơi , yêu tính sáng yêu hơn châu báu
    Kinh nhàn đọc dấu , trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim
    **
    Đệ nhị hội
    Biết vậy !
    Miễn được lòng rồi
    Chẳng còn phép khác
    Gìn tính sáng tính mới hầu an
    Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
    Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
    Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
    Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
    Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc
    Xét thân tâm rèn tính thức há rằng mong quả báo phô khoe
    Cầm giới hạnh địch vô thường nào có sá cầu danh bán chác
    Ăn rau ăn trái nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay
    Vận giấy vận sồi thân căn có ngại chi đen bạc
    Nhược chỉn vui bề đạo đức nửa gian lều quý nửa thiên cung
    Dầu năng miễn thửa nhân nghì ba phiến ngói yêu hơn lầu gác
    **
    Đệ tam hội
    Nếu mà cốc
    Tội ắt đã không
    Pháp học lại thông
    Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo
    Sửa mình học cho phải chính tông
    Chỉn bụt là lòng sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ
    Vong tài đổi sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công
    Áng tư tài tính sáng chẳng tham , há vì ở Cánh Diều Yên Tử
    Răn tham sắc niềm dừng chẳng chuyển , lọ chi ngồi Am Sạn Non Đông
    Trần tục mà nên , phúc ấy càng yêu hết tấc
    Sơn lâm chẳng cốc , họa kia thực cả đồ công
    Nguyền mong thân cận minh sư , quả Bồ đề một đêm mà chín
    Phúc gặp tình cờ tri thức , hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông
    **
    Đệ tứ hội
    Tin xem
    Miễn cốc một lòng
    Thời rồi mọi hoặc
    Chuyển tam độc mới chứng tam thân
    Đoạn lục căn nên trừ lục tặc
    Tìm đường hoán cốt , chỉn xá năng phục dược luyện đan
    Hỏi pháp chân không , hề chi lánh ngại thanh chấp sắc
    Biết chân như , tin bát nhã , chớ còn tìm phật tổ tây đông
    Chứng thực tướng nên vô vi , nào nhọc hỏi kinh nam bắc
    Xem Tam Tạng giáo , ắt học đòi thiền uyển thanh quy
    Đốt ngũ phần hương , chẳng tổn đến chiên đàn chiêm bặc
    Tích nhân nghì tu đạo đức , ai hay này chẳng Thích Ca
    Cầm giới hạnh đoạn ghen tham , chỉn thực ấy là Di Lặc
    **
    Đệ ngũ hội
    Vậy mới hay
    Bụt ở cong nhà
    Chẳng phải tìm xa
    Nhân khuây bản nên ta tìm bụt
    Đến cốc hay chỉn bụt là ta
    Thiền ngỏ năm câu , nằm nhãng cong quê Hà Hữu
    Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La
    Trong đạo nghĩa , khoảng cơ quan , đà đụt lặn trường kinh cửa tổ
    Lánh thị phi , ghê thanh sắc , ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
    Đức bụt từ bi , mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận
    Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã qua
    Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa , hoặc châm hoặc xể
    Cơm cùng cháo đói no đòi bữa , dầu bạc dầu thoa
    Ngăn bát thức nén bát phong , càng đè càng bội
    Lẩy tam huyền , nong tam yếu , một cắt một ma
    Cầm vốn thiếu dây , xá đàn dấu xoang Vô sinh khúc
    Địch chăng có lỗ , cũng bấm chơi xướng Thái bình ca
    Lẩy cội tìm cành , còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão
    Quay đầu chớp bóng , ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa
    Lọt quyển kim cương , há mặt hầu thông nên nóng
    Nuốt bồng lật cức , nào tay phải xước tượng da .

    **
    Đệ lục hội

    Thực thế
    Hãy xá vô tâm
    Tự nhiên hợp đạo
    Dừng tam nghiệp mới lặng tam thân
    Đạt một lòng thì thông tổ giáo
    Nhận văn nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ
    Chứng lý tri cơ , cứng cát phải nạp tăng khôn khéo
    Han hữu lậu han vô lậu , bảo cho hay the lọt duộc thưng
    Hỏi Đại thừa hỏi Tiểu thừa , thưa thẳng tắt sồi tiền tơ gạo
    Nhận biết làu làu lòng vốn , chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên
    Dồi cho vặc vặc tính gương , nào có nhuộm căn trần huyên náo
    Vàng chưa hết quặng , xá tua chín phen đúc chín phen rèn
    Lộc chẳng còn tham , miễn được một thì chay một thì cháo
    Sạch giới lòng dồi giới tướng , nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm
    Ngay thờ chúa thảo thờ cha , đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
    Tham thiền kén bạn , nát thân mình mới khá hồi ân
    Học đạo thờ thầy , dọt xương óc chưa thông của báo
    **
    Đệ thất hội
    Vậy mới hay
    Phép bụt trọng thay
    Rèn mới cốc hay
    Vô minh hết bồ đề thêm sáng
    Phiền não rồi đạo đức càng say
    Xem phỏng lòng kinh lời bụt thốt dễ cho thấy dấu
    Học đòi cơ tổ sá thiền không khôn chút biết nơi
    Cùng căn bản , tã trần duyên , mựa để mỗ hào ly đương mặt
    Ngã thắng chàng , viên tri kiến , chớ cho còn họa trữ cong tay
    Buông lửa giác ngộ đốt hoại thảy rừng tà thời trước
    Cầm kiếm trí tuệ quét cho không tính thức thuở nay
    Vâng ơn thánh , xót mẹ cha , thờ thầy học đạo
    Mến đức Cù , kiêng bùi ngọt , cầm giới ăn chay
    Cảm đức từ bi , để nhiều kiếp nguyền cho thân cận
    Đòi ơn cứu độ , nát muôn thân thà chịu đắng cay
    Nghĩa hãy nhớ , đạo chẳng quên , hương hoa cúng xem còn nên thảo
    Miệng rằng tin , lòng lại lỗi , vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay
    **
    Đệ bát hội
    Chưng ấy
    Chỉn xá tua rèn
    Chớ nên tuyệt học
    Lay ý thức chớ chấp chằng chằng
    Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc
    Công danh mảng đắm , ấy toàn là những đứa ngây thơ
    Phúc tuệ gồm no , chỉn mới khá nên người thực cốc
    Dựng cầu đò , dồi chiền tháp , ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu
    Săn hỉ xả , nhuyễn từ bi , nội tự tại kinh lòng hằng đọc
    Rèn lòng làm bụt , chỉn xá tu một sức dùi mài
    Đãi cát kén vàng , còn lại phải nhiều phen lựa lọc
    Xem kinh đọc lục , làm cho bằng thửa thấy thửa hay
    Trọng bụt tu thân , dùng mựa lỗi một tơ một tóc
    Cùng nơi ngôn cú , chỉn chăng hề một phút ngại lo
    rất thửa cơ quan , mựa còn để tám hơi dọt lọc
    **
    Đệ cửu hội
    Vậy cho hay
    Cơ quan tổ giáo
    Tuy khác nhiều đường
    Chẳng cách mấy gang
    Chỉn xá nói từ sau Mã tổ
    Ắt đã quen thuở trước Tiêu Hoàng
    Công đức toàn vô , tính chấp si càng thêm lỗi
    Khuếch nhiên bất thức , tai ngu mảng ắt còn vang
    Sinh Thiên Trúc , tử Thiếu Lâm , chôn dối chân non Hùng Nhĩ
    Thân bồ đề , lòng minh kính , bài giơ mặt vách hành lang
    Vương lão chém mèo , lại trẩy lòng ngừa thủ tọa
    Thầy Hồ khua chó , trỏ xem trí nhẹ con giàng
    Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư , chẳng cho mà cả
    Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc , khôn đến thưa đang
    Phá Táo phất cờ , đạp xuống dấu thiêng thần miếu
    Câu Chi day ngón , dùng đòi nếp cũ ông ang
    Lưỡi gươm Lâm Tế , nạng Bí Ma , trước nạp tăng dầu tự tại
    Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu , răn đàn việt hượm xá nghênh ngang
    Đưa phiến tử , cất trúc bề , nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn
    Xô hòn cầu , cầm mộc thược , bạn thiền hòa thửa khoe khoang
    Thuyền tử rà chèo , dòng xanh chửa cho tịn tẩy
    Đạo Ngô múa hốt , càn ma dường thấy quái quàng
    Rồng Yển lão nuốt càn khôn , ta xem chỉn lệ
    Rắn ông Tồn ngang thế giới , người thấy ắt dương
    Cây bách là lòng , thác ra trước phải phương Thái Bạch
    Bính đinh thuộc hỏa, lại trở sau hỏi hướng Thiên Cang
    Trà Triệu lão, bánh Thiều dương , bầy thiền tử hãy còn đói khát
    Ruộng Tào Khê , vườn Thiếu Thất , chúng nạp tăng những để lưu hoang
    Gieo bó củi , nẩy bông đèn , nhân mang mới nát
    Lộc đào hoa nghe tiếng trúc , mặc vẻ mà sang
    **
    Đệ thập hội

    Tượng chúng ấy
    Cốc một chân không
    Dụng đòi căn khí
    Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông
    Há cơ tổ nay còn thửa bí
    Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến , bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành
    Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên , ai ghẽ có sơn lâm thành thị
    Núi hoang rừng quạnh , ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
    Triền vắng am thanh , chỉn thực cảnh đạo nhân du hí
    Ngự cao tán cả , Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang
    Gác ngọc lầu vàng , ngục tốt thiếu chi người yêu quý
    Chuộng công danh , lồng nhân ngã , thực ấy phàm phu
    Say đạo đức , dời thân tâm , định nên thánh trí
    Mày ngang mũi dọc , tướng tuy là xem ắt bẵng nhau
    Mặt thánh lòng phàm , thực cách nhẫn vạn vàn thiên lý
    **
    Kệ vân:
    Cư trần lạc đạo thả trùy duyên
    Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
    Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
    Đối kính vô tâm mạc vấn thiền

    Gia quyến
     Vợ:
     Bảo Thánh hoàng hậu hay Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu (?-13/9/1293), con gáiTrần Hưng Đạo.
     Tuyên Từ hoàng hậu hay Tuyên Từ thái hậu (?-19/8/1318)
     Con trai:
     Hoàng Thái Tử -> Anh Tông Trần Thuyên (con của Bảo Thánh Hoàng Hậu)
     Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (29/1/1281-3/1328)
     Con gái:
     Công chúa Huyền Trân


    Đại Việt sử ký toàn thư của các sử gia thời Hậu Lê nhận định về ông:
    “Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân”.

    Đền thờ
    Đền Trần ở quê hương Nam Định
    Đền Thái Vi nơi các vua Trần xuất gia
    Đỉnh thiêng Yên Tử
    Đền Trần Nhân Tông tại Huế


    Tượng đài
    Công trình tượng đài Trần Nhân Tông được xây dựng tại khu vực An Kỳ Sinh, trên non thiêng Yên Tử có kinh phí đầu tư gần 70 tỷ đồng.
    Tượng đài với các phần: Đài sen và tượng được đúc bằng đồng liền khối (nguyên liệu nhập từ Australia), nặng khoảng 100 tấn, cao 9,9 m. Bệ đỡ tượng cao 2,9m; rộng 7,25m, kết cấu bằng bê tông cốt thép cường độ chịu lực ca; sân hành lễ, bậc đá, khuôn viên được lát bằng đá phiến tự nhiên.

    Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%B...%A2n_T%C3%B4ng

  12. 5 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Smile

    bần tăng (26-06-2021),Dieu Minh (27-12-2011),lê chí công (05-05-2014),tanrau (27-06-2021)

  13. #7
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    3
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 9 Times in 2 Posts

    Mặc định Viết về Bát Cổ

    Một số giai thoại về vua Trần Nhân Tông
    Năm 21 tuổi, vua Trần Nhân Tông lên ngôi hoàng đế năm 1279, tuy ở địa vị cửu trùng mà ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập,thường ngày ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Một hôm đang nghỉ trưa, ngài thấy trong rốn mọc lên một bông sen vàng lớn bằng bánh xe, giữa hoa sen có đức phật vàng, có người đứng bên cạnh chỉ ngài nói " Biết ông phật này chăng?" Là Đức phật Biết chiếu. Tỉnh giấc,ngài đem chuyện đó tâu lên vua cha, vua cha cho là chuyện kỳ lạ. Ngài thường ăn chay lạc, thân thể gầy ốm, Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ nên hỏi nguyên do, vua trình bầy với vua cha,Thánh Tông khóc bảo " Nay ta đã già, chỉ trông cậy vào một mình con, con lại làm như thế làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên ?" Vua Trần Nhân Tôngg nghe vậy cũng rơi nước mắt.

  14. 4 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Smile

    bần tăng (26-06-2021),manhcao277 (04-03-2016),tanrau (27-06-2021)

  15. #8
    Ngày tham gia
    Sep 2010
    Đang ở
    TP.HCM, Sđt: 0936686696
    Bài viết
    105
    Cảm ơn!
    610
    Thanked 481 Times in 87 Posts

    Mặc định

    Tâm Anh xin tiếp tục với đề tài viết về Bát Cổ. Tài liệu TA sưu tập được từ website của Ban quản lý di tích huyện Chí Linh.

    II. Tiều ẩn Cổ Bích - Đền thờ nhà giáo cụ Chu Văn An
    1. Tiểu sử:

    Thầy Chu Văn An hiệu là Tiều Ẩn – tự là Linh Triệt, thuỵ là Văn Trinh. Sinh ngày 25 tháng 8 năm Nhâm Thìn niên hiệu Trùng Hưng thứ 2 (1292) tại thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội). Cha là Chu Văn Thiện, mẹ là Lê Thị Chuân.
    Thuở nhỏ sớm có nghị lực, học rất giỏi, nghiêm khắc sửa mình, cương trực thẳng thắn, không màng danh lợi. ( Theo thần tích tại quê Thanh Liệt – Thanh Trì - Hà Nội, ông đỗ Tiến sỹ năm 12 tuổi). Mặc dù đỗ đạt cao nhưng ông không ra làm quan mà ở nhà đọc sách và dạy học tại thôn Văn. Trường Huỳnh Cung của thầy là cái nôi đào tạo hiền tài khắp xa gần. Có học trò là vương tôn, công tử, có học trò khoác áo thường dân, lại có cả học trò không phải người phàm tục. Chu Văn An thường nói với các học trò của thầy rằng: Ta chỉ dạy cho các trò làm nguời chứ không dạy cho các tro làm quan. Học trò của thầy nhiều người đỗ đạt cao vẫn giữ đức thanh liêm và làm nên sự nghiệp lớn như: Lê Quát, Phạm Sư Mạnh. Cảm mến tài đức của thầy, vua Trần Minh Tông mời thầy về Thăng Long làm Tư nghiệp Quốc Tử giám và dạy thái tử học.
    Khi Trần Dụ Tông lên ngôi, vua ham thích vui chơi, trễ nải việc chính trị, bề tôi nhiều người vi phạm phép nước, đời sống nhân dân khổ cực cơ hàn sưu cao thuế nặng, bọn gian thần thì lộng quyền hà khắc ức hiếp dân lành. Vận mệnh đất nước ảm đạm bởi lũ quan tham. Thấy được tội ác tầy trời của những kẻ nịnh thần cần phải xử nghiêm để giữ yên kỷ cương phép nước, nhiều lần Chu Văn An thẳng thắn khuyên vua sửa trị nhưng vua không nghe. Thầy bèn dâng “Thất trảm sớ” xin chém đầu 7 tên nịnh thần nhưng vua bỏ qua không xem xét. ( Mai Thọ Đức, Trâu Canh, Bùi Khâm, Văn Hiến, Nguyễn Thanh Lương, Tâm Đức Ngưu, Đoàn Nhữ Cẩu). Đau lòng trước nhân tình, thế thái thầy từ quan, treo mũ áo tại cửa Huyền Vũ, về núi Phượng Hoàng, Chí Linh, dựng nhà dạy học, tìm cây thuốc chữa bệnh, làm thơ, viết sách lưu lại cho hậu thế. Sống giữa tùng xanh, trúc biếc, lấy tên Tiều Ẩn – ví mình như một tiều phu ẩn dật trong rừng.
    Tuy Chu Văn An ở chốn lâm tuyền nhưng tấm lòng vẫn đau đáu vận mệnh quốc gia. Và triều đình cũng không quên một nhân tài mẫu mực. Khi triều chính có đại sự, bao giờ cũng mời ông về tham dự. Mỗi lần như thế ông đều tâu bày thẳng thắn, hy vọng giữ vững kỉ cương, làm cho quốc thái, dân an, thể hiện một nhân cách lớn. Vua thường cho người mang lễ vật đến nhà ban tặng. Thầy thường từ chối và nếu có nhận lại đem chia cho mọi người.
    Năm 1370, Trần Nghệ Tông lên ngôi thầy cả mừng, tuy tuổi đã cao, vẫn chống gậy về kinh bái yết. Vua ban chức gì ông cũng không nhận. Sau lễ bái yết, thầy trở lại nhà riêng ở Phượng Hoàng và mất tại đây vào ngày 26 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) thọ 79 tuổi.
    Vua Nghệ Tông được tin liền cho quan triều đến tế, đặt tên Thụy là Văn Trinh, hiệu là: Tiều Ẩn Khang Tiết tiên sinh, sắc phong Thượng Đẳng Thần và cho phối thờ tại Văn Miếu, ban tiền làm đền thờ ở 27 xã có môn sinh của Chu Văn An. Đây là trường hợp đặc biệt của giới nho sĩ nước nhà. Sau khi thầy mất, học trò làm nhà bên mộ đến cả năm, tế lễ để tỏ lòng thương tiếc thầy. Lịch sử dân tộc tôn vinh thầy là nhà nho có đức nghiệp lớn nhất. Sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn: “Văn Trinh Công thờ vua thì nói thẳng trước mặt; việc xuất hay xử đều có lí lẽ, rèn đúc nhân tài thành công khanh; cao thượng, tiết tháo, thiên tử cũng không bắt nổi làm tôi, nét mặt nghiêm nghị mà đạo làm thầy được tôn; lời nói lẫm liệt mà kẻ nịnh phải sợ. Đáng là bậc tôn sư của nhà nho nước Nam ta.”
    Sự nghiệp của Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo mẫu mực của muôn đời, là tấm gương sáng cho hâu thế noi theo. Sinh thời thầy có làm thơ, viết sách, nghiên cứu y dược, Chu Văn An biên soạn nhiều sách để dạy học và sáng tác nhiều thơ văn như: Tứ thư thuyết ước, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Y học yếu giải…Nay phần lớn đã thất truyền, chỉ còn lại 12 bài thơ chữ Hán và tập Y học yếu giải. Những bài thơ còn lại đến nay phần lớn được sáng tác trong những năm cuối đời ở Phượng Hoàng như các bài: Linh sơn tạp hứng, Thanh Lương giang, Miết trì, Xuân đán, Sơ hạ…
    Trong sự nghiệp giáo dục, Chu Văn An có nhiều cải cách tiến bộ khiến cho đương thời và mãi mãi về sau ghi nhận và trân trọng. Thầy là người đầu tiên truyền đạo Nho của Khổng Tử sang Việt Nam thành một đạo riêng biệt của người Việt đó là “Hữu giáo vô loại”, tức là nền giáo dục đi tới muôn dân.
    Trong khắp các nhà trường của chúng ta ngày nay đều dạy học sinh theo quan điểm “Học đi đôi với hành” Điều này 700 năm trước thầy Chu Văn An đã nói: “ Học mới chỉ là mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến được, có biết mới làm được, có làm mới biết. Nhưng cái biết trong làm mới là cái biết thiết thực, cái biết sâu sắc nhất.
    Đã hơn sáu thế kỷ, kể từ khi Chu Văn An qua đời, những tư liệu viết về ông đã thất lạc nhiều, di tích liên quan đến ông cũng thay hình đổi dạng. thế nhưng, những gì người đời viết về ông còn lại đến hôm nay đều là những lời lẽ trân trọng, chí tình về một nhà giáo tài đức vẹn toàn. Những di tích dù ở chốn rừng sâu hay giữa đô thành hoa lệ đều có sức hấp dẫn lạ thường và được nhân dân nhiệt tâm gìn giữ.
    Sau khi Chu Văn An qua đời, tại nơi thầy làm nhà dạy học và sống những năm tháng thoái triều đã được dựng ngôi đền thờ thầy gọi là đền Phượng Hoàng.

    Đền Phượng Hoàng – đền thờ thầy giáo Chu Văn An được xây dựng trên nền “Tiều Ẩn cổ bích” – một trong tám di tích cổ của đất Chí Linh.
    Di tích đền Thầy cách đây 700 năm chỉ còn lại phế tích. Được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, các ban ngành đoàn thể đặc biệt là ngành giáo dục đã tiến hành cuộc đại trùng tu và tôn tạo các hạng mục công trình tại khu di tích bằng công đức của giáo viên và học sinh cả nước nhằm phát huy truyền thống văn hóa – giáo dục của nước nhà. Không chỉ vậy còn biến Phượng Hoàng thành một điểm du lịch thú vị của Chí Linh.

    2. Đền thờ thầy giáo Chu Văn An
    Đền thờ tọa lạc trên núi Phượng Hoàng. Còn được gọi là “Phượng Sơn linh từ”. Đền được xây dựng trên một thế đất cao, rộng và linh thiêng. Đền được xây dựng theo thuyết phong thuỷ của người xưa, phía trước có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phượng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì lân và núi Phượng Hoàng như sải cánh của con chim phượng.
    Đền Chu Văn An kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, dựa theo kiến trúc thời Nguyễn, chồng diêm hai tầng tám mái. Nghệ thuật trang trí của đền theo đề tài tứ linh, tứ quý: long, ly, quy, phượng, tùng, cúc, trúc, mai. Các bức y môn sơn son thiếp vàng trang trí theo hình tượng: rồng chầu hoa cúc mãn khai.
    Đền thờ Chu Văn An gồm năm gian tiền tế và một gian Hậu cung. Có 5 ban thờ: Phía trong Hậu cung đặt tượng thờ thầy giáo Chu Văn An, tượng bằng đồng, nặng 100kg trị giá 79 triệu đồng do ĐH Kiến trúc công đức, trên là bức đại tự với hàng chữ “ Vệ dực chính đạo”. Ban tiếp theo là thờ gia tiên họ Chu, bên trên có bức đại tự “ Chính học thuần hành”. Ban chính giữa là ban công đồng, có 3 bức đại tự: Bức ở giữa “ Chấn phấn Nho học”; bức bên trái là “Minh thánh đạo”; bức bên phải là “Nhân trí dũng” và toàn bộ hoành phi câu đối ca ngợi đức độ Chu Văn An. Ban phía bên tay phải từ trong ra là ban thờ học trò thầy Chu Văn An, ban bên trái thờ Sơn thần Phượng Hoàng.
    Kiến trúc giai đoạn một bao gồm các hạng mục công trình: đền chính, sân thượng, các bậc đá, hai đuôi rồng đá, sân chung với hai nhà giải vũ, sân hạ và hai nhà bia. Đặc biệt hai rồng đá kiến trúc theo kiểu rồng thời Trần chắc, khoẻ, các bậc đá đều xây dựng theo kiểu thất trảm sớ ( có 7 bậc).

    3. Lăng mộ Thầy Chu Văn An
    Lăng mộ Thầy tọa lạc trên mỏm núi Phượng Hoàng giữa rừng thông bát ngát, cảnh quan thiên nhiên khu lăng mộ Chu Văn An khá đẹp.
    Di tích đền thờ nhà giáo Chu Văn An được khôi phục, tôn tạo lại vào năm 1997, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân xa gần cũng như giáo giới trong cả nước . Kiến trúc xây liền khối theo hình chữ nhật theo hướng Đông Nam. Trang trí mỹ thuật chính tập trung khắc hoạ hình tượng: Cuốn sách và giải bút nhọn thể hiện cho đức nghiệp thanh cao, trong sáng vì sự nghiệp giáo dục đất nước của thầy Chu Văn An.

    4. Điện Lưu Quang nằm bên phải đền về phía tây – tương truyền là nơi Thầy dạy học khi về núi Phượng Hoàng.
    Đến với mảnh đất Chí Linh là đến với một mảnh đất láng hồn thiêng sông núi. Thiên nhiên thơ mộng và khí thiêng sông núi nơi đây đã đi vào thơ ca, nhạc, họa tự bao đời. Mảnh đất này không chỉ làm say lòng các tao nhân mặc khách tài hoa mà còn nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người khiến ta yêu thiên nhiên và say mê cái đẹp. Mỗi khi lòng mình u ẩn bởi những lo toan, tất bật của cuộc sống thường nhật hay mệt mỏi trước thế thái nhân tình, hãy tìm về với sông núi nơi đây, đắm mình trong sắc biếc của thông mã vĩ, lặng nghe tiếng suối reo rì rào, bao mệt mỏi buồn lo sẽ tan đi và lại thấy bao điều kì diệu sẽ mở ra trước mắt.

    5. Phong tục - Lễ hội: (Theo âm lịch)
    Đền thờ nhà giáo Chu Văn An đã trở thành một địa chỉ tâm linh cho các thầy cô giáo, các em học sinh và nhân dân cả nước. Vào những ngày lễ du khách về chiêm bái đền Thầy rất đông. Nhiều sở giáo dục, phòng giáo dục, nhiều trường đến đền Thầy làm lễ dâng hương, phát thưởng, xin chữ Thánh Hiền cho Giáo viên và học sinh.
    - Lễ hội mùa xuân: diễn ra vào tháng Giêng
    - Lễ hội mùa thu: diễn ra vào tháng 8 – mùa khai giảng. (lễ chính ngày 25 tháng 8 – Sinh nhật Thầy)
    - Lễ hội Về Nguồn: diễn ra vào 26 tháng 11 – tưởng niệm ngày mất của Thầy.
    - Trước khi vào mùa thi khách đến lễ Thầy xin lộc thi cử rất đông
    - Những năm gần đây, Ngày 20 – 11, rất nhiều du khách đến dâng hương Thầy.
    Lần sửa cuối bởi tamanh, ngày 23-12-2010 lúc 14:24.

  16. 6 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới tamanh

    bần tăng (26-06-2021),HieuLinh (09-04-2012),lê chí công (05-05-2014),Nguyen XY (17-04-2012),tanrau (27-06-2021)

  17. #9
    Ngày tham gia
    Aug 2011
    Bài viết
    48
    Cảm ơn!
    686
    Thanked 582 Times in 52 Posts

    Mặc định

    Thượng Tể Cổ Trạch

    Thượng Tể Cổ Trạch gương sáng ngời
    Tài năng, đức độ truyền muôn đời
    Bình Chiêm, hộ Quốc, hưng Tổ nghiệp
    Hào khí Đông A sáng đất trời.

    Kim Quy Cổ Loan

    Kim Quy Cổ Loan việc kỳ tình
    Một nhà năm Thánh cùng hiển linh
    Giúp vua dẹp giặc cứu dân, nước
    Xong việc, về trời chẳng tham vinh.

    Phao Sơn Cổ Thành

    Phao Sơn Cổ Thành mãi tiếng vang
    Anh hùng xuất hiện chốn dân gian
    Tre ngà, liên nỏ phá giặc mạnh
    Sáng danh người Việt thủa hồng hoang.

  18. 14 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Lam

    bần tăng (26-06-2021),BONGMAYHOA (06-04-2014),HieuLinh (09-04-2012),HoaXuan (17-04-2012),lê chí công (05-05-2014),manhcao277 (04-03-2016),PhongThuyGia (17-04-2012),tamanh (26-12-2011),tanrau (27-06-2021),Thutrang (12-06-2025),Tieutrucxinh (26-12-2011),TruongKhoat (26-12-2011)

  19. #10
    Ngày tham gia
    Aug 2011
    Bài viết
    48
    Cảm ơn!
    686
    Thanked 582 Times in 52 Posts

    Mặc định

    Tinh Phi Cổ Tháp

    Tinh Phi Cổ Tháp ánh hào quang
    Đệ nhất nữ trạng của nước Nam
    Tài, Chí đi trước hàng niên kỷ
    Thực thi bình đẳng thật vẻ vang.
    Một lòng tu luyện không ngừng nghỉ
    Đền nợ non sông trả nghĩa Thầy

  20. 14 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Lam

    bần tăng (26-06-2021),BONGMAYHOA (06-04-2014),HieuLinh (09-04-2012),Hoasentrang (09-04-2012),HoaXuan (17-04-2012),longtadinh (03-05-2019),manhcao277 (04-03-2016),PhongThuyGia (17-04-2012),tamanh (09-04-2012),tanrau (27-06-2021),thanhphong (31-07-2014),Thutrang (12-06-2025)

Trang 1 của 2 12 CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •