Kết quả 1 đến 2 của 2
Chủ đề: Vài nét về các đời vua nhà Trần
Threaded View
-
28-09-2012, 01:15 #1nhatchimai_2405 Guest
Vài nét về các đời vua nhà Trần
1.Trần Thái Tông
Trần Thái Tông, tên thật là Trần Cảnh (17/07/1218 – 04/0 5/1277) là nhà vua đầu tiên của nhà Trần, ở ngôi hơn 32 năm (1225-1258), làm Thái Thượng Hoàng 19 năm.
Ông được vợ là Lý Chiêu Hoàng, nữ hoàng đầu tiên và là nhà vua cuối cùng của nhà Lý nhường ngôi. Việc ông được đưa lên làm vua nói riêng và nhà Trần thay thế nhà Lý nói chung phần lớn nhờ ở công sức của Trần Thủ Độ, chú của Trần Cảnh. Khi đó Trần Thủ Độ là Điện tiền chỉ huy sứ trong triều Lý. Bố của Trần Cảnh là Trần Thừa, cũng là một viên quan của triều Lý như Trần Thủ Độ. Ông từng làm Nội thị khán thủ, một chức quan đứng đầu các quan hầu cận của vua nhà Lý).
Trong thời gian ở ngôi, Trần Thái Tông đã 3 lần đổi niên hiệu: Kiến Trung (1225-1232), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1250) và Nguyên Phong (1251-1258).
Trước khi truyền ngôi cho con trai là Thái tử Trần Hoảng (sau là vua Trần Thánh Tông), Trần Thái Tông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt chống lại thành công cuộc xâm lược lấn thứ nhất của quân Nguyên Mông.
2. Trần Thánh Tông
Trần Thánh Tông( 1240-1291) tên thật là Trần Hoảng là nhà vua thứ hai của nhà Trần, ở ngôi 21 năm (1258-1278) và làm Thái Thượng Hoàng 13 năm.
Trong thời gian ở ngôi, Trần Thánh Tông đã 2 lần đổi niên hiệu: Thiện Long (1258-1272) và Bảo Phù (1273-1278).
Bộ Đại Việt sử ký do Lê Văn Hưu viết cũng được hoàn thành trong thời gian này. Ông là một người biết sử dụng nhân tài, chăm lo việc nước, thi hành một đường lối ngoại giao mềm dẻo nhưng cứng rắn để đối phó với tham vọng xâm lược của quân Nguyên.
Năm 1278, sau chiến tranh ông truyền ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm (sau là vua Trần Nhân Tông), về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách.
3. Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông( 1258-1308) tên thật là Trần Khâm, là nhà vua thứ ba của nhà Trần , ở ngôi 15 năm (1278-1293) và làm Thái Thượng Hoàng 15 năm.
Trần Nhân Tông là một vị vua được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử. Trong thời gian trị vì, ông đã lãnh đạo nhân dân qua 2 cuộc chống xâm lược Nguyên Mông (1285 và 1287).
Các niên hiệu trong thời gian vua Trần Nhân Tông trị vì là Thiệu Bảo, Trùng Hưng.
Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này.
Ông mất năm 1308, chôn ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
4. Trần Anh Tông
Trần Anh Tông(1276-1320) tên thật là Trần Thuyên, là nhà vua thứ tư của nhà Trần, ở ngôi 21 năm (1293-1314) và làm Thái thượng hoàng 6 năm.
Niên hiệu trong đời vua Trần Anh Tông là Hưng Long.
Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Về văn có Trương Hán Siêu, võ có Phạm Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.
Thời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Có thể coi đó là thời rất thịnh của nhà Trần vậy. Tuy nhiên, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư dù có khen nhưng vẫn phê phán ông là quá mộ đạo Phật: Vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần.
5. Trần Minh Tông
Trần Minh Tông(1300-1357) tên thật là Trần Mạnh, là nhà vua thứ năm của nhà Trần, ở ngôi 15 năm (1314-1329) và làm thái thượng hoàng 28 năm.
Các niên hiệu trong đời vua Trần Minh Tông là Đại Khánh, Khai Thái.
Năm Giáp Dần (1314), thái tử Mạnh lên nối ngôi lấy niên hiệu là Đại Khánh. Minh Tông có lòng nhân hậu, hay thương người nhưng xét việc chưa minh.
Năm Ất Mão (1315) vua định lệ cấm người trong họ không được kiện cáo nhau.
Năm Quý Hợi (1323) mở khoa thi Thái học sinh chọn người có tài ra giúp nước.
Minh Tông làm vua đến năm Ất Tị (1329) thì nhường ngôi cho Thái tử Vượng, về làm Thái Thượng hoàng.
6. Trần Hiến Tông
Trần Hiến Tông (1319-1341) tên húy là Trần Vượng, là vua thứ sáu của nhà Trần, lên ngôi ngày 15 tháng 2 âm lịch năm Kỷ Tị 1329, đặt niên hiệu là Khai Hựu.
Hiến Tông trị vì nhưng việc điều khiển triều chính, kể cả việc dẹp loạn Ngưu Hống ở Đà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi đều do Thái thượng hoàng Trần Minh Tông, cha ông đảm nhận. Ông làm vua đến năm Tân Tị 1341 thì mất, ở ngôi 13 năm, thọ 23 tuổi.
7. Trần Dụ Tông
Trần Dụ Tông, tên thật là Trần Hạo (1336-1369) là nhà vua thứ bảy của nhà Trần. Ông cai trị từ năm 1341 đến 1369.
Hiến Tông mất, Thượng hoàng lập người con tên Hạo, sinh năm Bính Ngọ (1336) lên làm vua hiệu là Dụ Tông.
Từ năm 1358 trở đi, Thượng Hoàng mất, các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình bắt đầu rối loạn. Bọn gian thần kéo bè kết đảng lũng đoạn triều chính. Chu Văn An dâng Thất trảm sớ xin chém 7 gian thần nhưng vua không nghe, ông liền bỏ quan về dạy học. Vua Dụ Tông ham chơi bời rượu chè khiến triều đình rối nát loạn nổi lên như ong. Nhân dân cực khổ trăm bề. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga mấy lần đem quân đánh phá thành Thắng Long khiến triều Trần nhiều phen khốn đốn.
Các niên hiệu trong thời gian vua Trần Dụ Tông trị vì là Thiệu Phong (1341-1357), Đại Trị (1358-1369).
8. Trần Nghệ Tông
Trần Nghệ Tông (1321-1394) là vua thứ 8 nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Phủ, người hương Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định, Việt Nam.
Trần Nghệ Tông sinh năm 1321, là con thứ ba của Trần Minh Tông, em vua Trần Hiến Tông, anh vua Trần Dụ Tông. Mẹ ông là Lê Thái phi.
Năm 1369, Trần Dụ Tông mất, truyền ngôi cho Dương Nhật Lễ.
Nhật Lễ làm vua nhưng bỏ bễ công việc, ham chơi, rượu chè, lại giết bà nội là mẹ Dụ Tông vì bà hối hận việc lập Nhật Lễ. Lễ còn định đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình.
Tháng 11 năm 1370 các hoàng tử, thân tộc nhà Trần mưu khởi binh lật đổ Nhật Lễ. Trần Kính giúp anh là Trần Phủ đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội. Ông cùng Trần Phủ thực hiện đảo chính lật đổ giết chết Nhật Lễ. Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.
9. Trần Duệ Tông
Trần Duệ Tông (1337-1377) là vua thứ 9 nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Kính, người hương Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định, Việt Nam.
Trần Duệ Tông sinh ngày 2 tháng 6 năm 1337. Ông là con thứ mười một của Trần Minh Tông, em vua Trần Nghệ Tông. Mẹ ông là Đôn Từ Hoàng Thái phi.
Noi gương đời trước của nhà Trần thường giữ chế độ vua và thái thượng hoàng cùng trị nước. Năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho ông lên làm thượng hoàng. Đây là trường hợp đầu tiên thượng hoàng chỉ là anh của vua trong lịch sử Việt Nam. Trần Kính lên ngôi, tức là Trần Duệ Tông.
Trần Duệ Tông tiếp tục đường lối của cha ông, liên tục tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Năm 1375(Ất Mão) xuống chiếu chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập nghề võ, thông hiểu thao lược, thì không cứ là tôn thất đều làm tướng coi quân, đồng thời cho ra khỏi quân ngũ những người lính già cả, ốm yếu, bệnh tật..."
Ông đã tổ chức thi Đình tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Những nho sĩ thời đó như Đào Sư Tích (Trạng nguyên), Lê Hiến Phủ (Bảng nhãn), Trần Đình Thám (Thám hoa)... đều xuất thân từ bình dân, không trong hàng ngũ hoàng tộc. Vua rất coi trọng nho sỹ, coi đó là đại diện văn hiến nước nhà, nên cho ăn yến, áo xấp, tước phẩm...
10. Trần Phế Đế
Trần Phế Đế (1361-1388) là vua (1377-1388) thứ 10 nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Hiện, người hương Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định, Việt Nam.
Trần Phế Đế là con trưởng của vua Trần Duệ Tông, có tên húy là Hiện (hay Nghiễn), mẹ là bà Gia Huệ hoàng hậu Lê Thị. Ông sinh ngày mồng 6 tháng 3 năm Đại Trị thứ 4 đời Trần Dụ Tông, tức năm Tân Sửu (1361).
Sau khi vua cha Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Trần Hiện được bác là thượng hoàng Nghệ Tông đưa lên ngôi. Khi lên nối ngôi, ông mới 16 tuổi, mọi quyền hành vẫn do Thượng hoàng Trần Nghệ Tông nắm giữ.
Vua nước Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nhân đà thắng lợi liên tục tiến đánh và cướp phá Đại Việt. Năm Mậu Ngọ (1378), Chế Bồng Nga lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng cướp phá Thăng Long một lần nữa.
Đến năm Canh Thân(1380) rồi năm Nhâm Tuất (1382) quân Chiêm lại tiến quân vào Đại Việt song bị đánh lui.
Đến tháng 6 năm Quý Hợi (1383), Chiêm Thành lại đem quân đánh Đại Việt. Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Mật Ôn ra giữ ở Tam Kì nhưng Mật Ôn thua trận bị bắt sống. Nghệ Tông lại sai Nguyễn Đa Phương trấn thủ kinh thành còn mình và Phế Đế chạy sang Đông Ngàn.
Đến tháng 12 năm Quý Hợi (1388) quân Chiêm rút về, thượng hoàng mới trở lại kinh sư.
Năm Tân Dậu (1381) Phế Đế mở khoa thi thái học sinh, song từ đó lại lựa chọn những người khỏe mạn để gia nhập quân đội, việc làm kì quặc này không chỉ đi ngược với tiền triều mà còn làm mất lòng dân, nản lòng binh sĩ.
Nghe lời Đỗ Tử Bình, triều đình tiếp tục cho tăng sưu thế để cứu kho tàng trống rỗng vì chiến tranh, bắt mỗi suất đinh đóng 3 quan tiền thuế khiến cho nhân dân ngày càng cực khổ. Mặt khác, ở phương Bắc, nhà Minh cũng dòm ngó Đại Việt, Minh Thái Tổ đòi Đại Việt cấp 5000 thạch lương cho quân Minh ở Vân Nam. Nhà Trần phải biện bạch là đã sai chuyển vận sứ đem đi, nhưng vì lam chướng nhiều người bị chết nên thất thoát. Tháng 3 năm Ất Sửu (1385) nước Minh lại đòi cống nạp tăng nhân, do người phương Nam có tài dựng đạo tràng. Người Minh còn đòi cống nạp các loại quả như vải, nhãn, mít... và còn đòi cấp 50 con voi, mượn đường đánh Chiêm Thành.
11. Trần Thuận Tông
Trần Thuận Tông (1388-1398) là vua thứ 11 nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Ngung, người hương Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định, Việt Nam.
Thuận Tông là con út của thượng hoàng Trần Nghệ Tông, khi còn nhỏ được phong là Chiêu Định Vương, lên làm vua khi mới 11 tuổi, lập con gái trưởng của Hồ Quý Ly là Khâm Thánh làm hoàng hậu.
Vua cha Nghệ Tông tin dùng Hồ Quý Ly. Mọi việc trong triều do Nghệ Tông sắp đặt nhưng phần nhiều theo lời Quý Ly.
Năm 1389 Chế Bồng Nga(nước Chiêm Thành) đem quân đánh Đại Việt, vua sai Quý Ly và Nguyễn Đa Phương đi đánh nhưng đánh không thắng.
Năm 1390 tướng Trần Khát Chân được vua sai đi đánh Chiêm, đem binh đóng ở Hải Triều (vùng Hưng Nhân,Thái Bình và Tiên Lữ, Hưng Yên). Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa, hàng tướng của Chiêm Thành cho Khát Chân biết dấu hiệu thuyền của Chế Bồng Nga, Chân cho quân tập trung mọi loại vũ khí bắn vào thuyền đó, giết được Chế Bồng Nga, quân Chiêm đại bại, hai người con của Chế Bồng Nga về hàng quân Trần, được vua Trần trọng dụng.
Đến ngày 15 tháng 12 năm 1394, Nghệ Tông mất, Quý Ly lên làm Nhập nội phụ chính Thái sư bình chương quân quốc trọng sự. Tuyên trung vệ quốc đại vương, đeo lân phù vàng.
12. Trần Thiếu Đế
Trần Thiếu Đế là vua thứ 12 và là vua cuối cùng của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên húy là An người hương Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định, Việt Nam.
Trần Thiếu Đế là con trưởng của vua Trần Thuận Tông, mẹ là Thánh Ngẫu (con gái của Hồ Quý Ly). Trần Thiếu Đế sinh năm 1396, lên ngôi tháng 3 năm Mậu Dần (1398) lúc mới chỉ có 2 tuôi, thậm chí còn chưa biết lạy.
Hồ Quý Ly thao túng triều đình nhà Trần, sau khi phế truất Thuận Tông, đưa Thiếu Đế lên ngôi nhằm từng bước đoạt ngôi của nhà Trần. Thiếu Đế tuy gọi là vua nhưng chỉ là hư vị.
Bà Thánh Ngẫu, mẹ của vua Thiếu Đế, là con gái Hồ Quý Ly, vì thế Quý Ly là ông ngoại của Thiếu Đế. Sau khi Thiếu Đế lên ngôi, Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại vương. Quý Ly cũng đem giết chết 370 người đã mưu mô giết Quý Ly, trong đó có thái bảo Trần Nguyên Hãn và thượng tướng Trần Khát Chân.
Ngay trong khi Thiếu Đế đang ở ngôi, năm 1399, Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng đế ra vào dùng 12 lọng vàng; con thứ là Hán Thương xưng Nhiếp Thái phó, con cả là Hồ Nguyên Trừng làm tư đồ.
Tình hình Đại Việt lúc này càng thêm hỗn độn, giặc cướp Nguyễn Nhữ Cái nổi lên có hàng vạn người, cướp boc bừa bãi, khiến triều đình bó tay, mãi 4 tháng sau An phủ sứ Đông lộ Nguyễn Bằng Cử ra quân đánh dẹp mới yên.
Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400), vua Thiếu Đế bị ép nhường ngôi. Hồ Quý Ly sai tông thất nhà Trần và quần thần phải 3 lần dâng biểu khuyên mới chịu nhận làm vua. Quý Ly lên ngôi đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, lại đổi lại họ cũ của mình là họ Lê thành họ Hồ
Thiếu Đế bị phế nhưng vì là cháu của Hồ Quý Ly nên không bị giết, chỉ bị giáng xuống làm Bảo Ninh Đại vương. Triều Trần mất.
(Tài liệu sưu tầm Internet)View more the latest threads:
- Tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Nguyên...
- Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ...
- Trần Bình Trọng - Danh tướng Thà làm quỷ...
- Tóm lược: Tiểu sử Đức vua- Phật hoàng Trần...
- Nhà Trần đến với Đạo Phật
- Câu chuyện Ước mơ của vua Trần Nhân Tông
- Công chúa An Tư và khoảng trống tư liệu lịch...
- Thái Sư Trần Thủ Độ
- Tìm hiểu về Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang...
- Tìm hiểu về CHIÊU VĂN VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT
-
14 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới nhatchimai_2405
dietmatam (28-09-2012),Hạnh An (25-02-2015),Hoa Cát Tường (27-02-2020),Hua Toan (28-09-2012),nghiad99 (14-11-2012),Phương Nam (28-09-2012),SONGHONG (30-09-2012),tamminh (28-09-2012),thanhphong (30-08-2014),Thuanhoang (28-09-2012),Trần Kim Cương (21-04-2016),trungthanh (11-01-2015),Vidieu (28-09-2012),white_cloud (30-09-2012)