Kết quả 1 đến 1 của 1
-
19-12-2012, 21:41 #1
Khách
- Ngày tham gia
- Feb 2011
- Đang ở
- Hà Nội
- Bài viết
- 442
- Cảm ơn!
- 2,929
- Thanked 13,623 Times in 446 Posts
Vận dụng những quan điểm và học thuyết triết học cổ phương Đông trong tập luyện khí công.
Nền triết học Đông phương cổ đã có hình thành và phát triển từ lâu đời. Nhờ những quan điểm, những học thuyết này chúng ta có thể giải thích các hiện tượng trong vũ trụ biến hóa vô lường, trong cơ thể sống, cũng như áp dụng trong quá trình luyện tập khí công, chữa bệnh bằng khí công. Trong quá trình luyện tập khí công nói chung và KCTL nói riêng, chúng ta đều phải vận dụng các quan điểm, các học thuyết triết học phương Đông này.
1. Các quan điểm thường vận dụng trong luyện tập:
a) Thuận theo tự nhiên:
Trong cơ thể con người mọi hoạt động đều theo một quy luật, một trật tự nhất định. Nếu ta tôn trọng quy luật, trật tự ấy trong luyện tập, đó là sự thuận tự nhiên ở bên trong cơ thể. Cũng như vậy, mọi hoạt động của vũ trụ cũng đều theo quy luật nhất định. Ta phải tôn trọng những quy luật, trật tự ấy trong quá trình luyện tập. Đó là sự thuận tự nhiên bên ngoài cơ thể. Trong quá trình luyện tập không được gò ép, không được làm trái quy luật.
b) Dụng tâm dẫn ý – sinh khí – tạo lực:
Tức là dùng ý niệm, mật lệnh nhằm tập trung năng lượng, khi tập trung cao độ sẽ tạo được lực cho năng lượng, dùng ý đưa năng lượng đến nơi cần thiết. Chỉ khi tạo được lực của năng lượng thì mới có giá trị cao để sử dụng năng lượng vào các mục đích khác nhau. Một điều hết sức quan trọng là ý và năng lượng phải đồng bộ với nhau.
Không được dùng lực mà phải dùng ý chí trong luyện tập và chữa bệnh. Bởi vì, phương pháp của KCTL là phương pháp tĩnh khí công.
Để có thể dụng tâm dẫn ý – sính khí – tạo lực thì người tập khí công phải:
- Tự nguyện:
Mỗi người phải tự nguyện luyện tập. Nếu luyện tập vì một sự thúc ép nào đó (dù là quyền lực hoặc sự thúc ép về kinh tế) hoặc theo trào lưu, không có một sự hiểu biết nhất định, thường kết quả không được tốt... Trong quá trình luyện tập, tự mỗi người phải tự nguyện khắc phục những khó khăn trở ngại để có thể tập trung ý nghĩ luyện tập cho thật tốt. Chỉ có tự mình luyện tập mới có thể tìm tòi, suy nghĩ nảy sinh sáng kiến giúp cho quá trình luyện tập được tốt hơn. Có như vậy mới có thể tiến bộ và đạt được những kết quả mong muốn, đẩy lùi được bệnh tật hoặc kéo dài được tuổi thọ và có thể đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực Khí công.
- Định tâm:
Trong khi tập luyện (cũng như khi hành công) người tập phải tập trung tư tưởng, gạt bỏ mọi tạp niệm. Ý nghĩ trong sáng hướng vào mục tiêu tốt đẹp, mục đích rõ ràng. Như vậy sẽ dẫn được ý, tạo được khí và khí tạo ra mới có lực. Việc luyện công và hành công sẽ đạt kết quả cao.
Tạp niệm là những suy tư, ý nghĩ đã có sẵn trong trí não của chúng ta. Tạp niệm phát sinh từ tri thức. Bởi vậy, người học nhiều, người hay suy tư thường có nhiều tạp niệm hơn người thật thà chất phác và ít học. Tri thức là căn bệnh lớn nhất của con người. Nó sinh ra phiền não, là đầu mối của tham sân si, là căn nguyên của nhục dục. Muốn gạt bỏ tạp niệm thì chớ nên cố gắng gạt bỏ tạp niệm. Càng cố gắng chừng nào thì tạp niệm càng khởi phát chừng đó. Hãy hiểu ràng: Tâm tư của chúng ta như mặt nước, còn tạp niệm thì như những hạt bụi. Nếu để yên, tự nó theo thời gian sẽ lắng đọng. Tạp niệm đến rồi đi, tự nhiên như gió vào nhà trống. Chúng ta thiền định tốt, dần dần sẽ đạt được khí hòa, thần định, tâm bình. Khi đó tạp niệm cũng tự nhiên biến mất mà không cần gạt bỏ.
- Làm chủ:
Tức là làm chủ bản thân, làm chủ ý thức… của mình. Càng học cao, càng phải làm chủ ý thức.
2. Vận dụng thuyết âm dương:
Thuyết âm dương phát triển phổ biến và bùng phát mạnh vào thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc. Lúc này thuyết âm dương không còn đơn thuần để diễn tả ánh mặt trời và bóng tối nữa.
Cổ nhân đã dựa vào các thuộc tính của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và cơ thể để quy nạp vào tính chất của âm, dương. Đồng thời cũng sáng tạo ra cơ sở của hệ thống tư duy cơ bản, đó là hai phạm trù đối lập nhau: Âm và Dương.
Thuyết âm dương là một học thuyết triết học về Thế giới quan và Vũ trụ quan. Khi vận dụng vào Đông y, khí công, nó đã trở thành một phương pháp tư duy, suy luận, lý giải và là nền tảng của mọi phép luyện tập, chữa bệnh.
Khi người ta sinh ra, bẩm thụ khí của trời đất cho nên thông với thiên khí và cũng là căn bản của sự sống. Âm dương trong cơ thể cũng tùy theo sự vận động của âm dương trong tự nhiên mà biến hóa không ngừng. Nếu cơ thể quân bình âm dương thì khỏe mạnh, vô bệnh vô tật. Cổ nhân đã nói: “bách bệnh giai sinh vu khí” (trăm thứ bệnh đều do khí mà ra). Âm khí và dương khí trong cơ thể mà mất cân bằng sẽ sinh rối loạn và bệnh sẽ phát sinh. Nếu ta dùng khí để lập lại sự cân bằng ấy, bệnh sẽ ổn định rất nhanh. Đây là một lợi thế của khí công chữa bệnh.
3. Học thuyết ngũ hành:
Ngũ hành là năm loại vật chất với năm đặc tính vận đông và biến hóa khác nhau: hỏa, thổ, kim, thủy, mộc. Đây là năm yếu tố cấu thành nên thế giới. “Hành” nghĩa là đi, là vận động, biến hóa và các mối quan hệ lẫn nhau của 5 loại vật chất này. Vận dụng quy luật tương sinh, tương khắc trong ngũ hành để giải thích thế giới, xây dựng hệ thống tư duy, giải thích mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, đời sống. Học thuyết ngũ hành giải thích tất cả mọi thứ trong tự nhiên đều do 5 loại nguyên liệu tạo thành là: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tuy theo sự thịnh suy của 5 loại nguyên liệu này và tự nhiên phát sinh các biến hóa chuyển đổi, những biến hóa này không những ảnh hưởng đến sự sống và số phận của loài người mà còn khiến vạn vật trong vũ trụ biến đổi tuần hoàn không dứt.
Thuyết ngũ hành đã đi vào lĩnh vực Đông y, vận dụng thuyết ngũ hành để phối thuộc với ngũ tạng trong cơ thể: Phế thuộc Kim, Tỳ thuộc Thổ, Tâm thuộc Hỏa, Thận thuộc Thủy, Can thuộc Mộc. Mối quan hệ của các tạng cũng có mối quan hệ tương sinh, tương khắc như của ngũ hành. Khi vận dụng thuyết ngũ hành vào cơ thể người có thể giải thích rất rõ mối quan hệ giữa các cơ quan bộ phận trong cơ thể. Trong cơ thể, nếu ngũ hành phân bố cân bằng hoặc hoạt động theo quy luật thì cơ thể có trạng thái sinh lý bình thường, nếu phân bố không cân bằng hoặc hoạt động trái quy luật thì rơi vào trạng thái bệnh lý.
Quy luật Ngũ hành sinh khắc
4. Thuyết Thiên – Địa – Nhân hợp nhất:
Theo “Nội kinh Hoàng đế”, Y học truyền thống phương Đông với triết học phương Đông đều từ một nguồn gốc sinh ra, có ảnh hưởng lẫn nhau. Thuyết “Thiên Địa Nhân hợp nhất” là do Nho gia và quan điểm “Ngũ hành” của Đạo gia đã thấm nhuần và xuyên suốt toàn bộ lý luận của Đông y. Trời, đất và người mỗi thứ là một vũ trụ, không có sự phân biệt, chỉ khác ở quy mô lớn nhỏ… con người tương ứng với trời, đất. “Thiên chân”, “chân khí”, “chân nhân” là những cái thuần khiết xác thực nhất của tự nhiên. Khi tập luyện dưỡng sinh, khí công điều quan trọng nhất là sự hòa hợp thống nhất giữa con người và tự nhiên.
Để đạt được những thành tựu trong luyện tập khí công, nhất thiết chúng ta phải vận dụng triệt để các quan điểm và học thuyết cố phương Đông ở trên.View more the latest threads:
- Về khái niệm Tà khí
- Bảng tổng hợp các Tạng. Phân tích bài hộ Phế
- Xuất xứ của "Hệ thống năng lượng cơ bản...
- Tìm hiểu ứng dụng của học thuyết Âm - Dương
- Bảng Tổng Hợp Đặc Điểm Của Các Tạng
- 12 kinh mạch chính và video mô tả đường vận...
- Tìm hiều về tạng thận
- File tổng hợp Kiến Thức Cơ Bản
- Một Số KHÁI NIỆM VỀ KHÍ
- Cấu tạo dạ dày
Muốn thiền, thiền phải có duyên,
Muốn tu, muốn luyện, phải chuyên tâm này.
-
34 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới hocdao
DIỆU TÂM (23-06-2016),dietmatam (21-12-2012),Hạnh An (21-12-2012),heculer (20-12-2012),hiepqf3 (21-12-2012),hoanlinh (16-03-2014),HoaXuan (20-12-2012),HocTroQueThanh (27-08-2018),Hua Toan (20-12-2012),july (21-12-2012),kienvang00012003 (21-04-2014),lê chí công (29-10-2020),longtadinh (09-07-2014),mahalkita (20-12-2012),newebook (07-07-2014),nghiad99 (20-12-2012),Ngoạn Hiền (22-12-2012),nguoihoc (05-09-2022),Nguyễn Thành Công (20-12-2012),PhongThuyGia (24-03-2014),Phương Nam (20-12-2012),Tamhuongthien (21-12-2012),tamminh (21-12-2012),Tịnh_Tâm (21-12-2012),THANHTINH (21-12-2012),ThanhTrung90 (06-01-2013),Tieutrucxinh (21-12-2012),tranhung266 (20-12-2012),Tuệ Không (21-12-2012),TuMinh (26-02-2018),turaunt (21-12-2012),Đại Minh (22-06-2014)