Kết quả 1 đến 2 của 2
Chủ đề: Nguyên nhân gây bệnh
Threaded View
-
05-02-2012, 13:53 #1
Nguyên nhân gây bệnh
NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
Bài viết dưới đây có tham khảo một số kiến thức về đông y, có thể có những điểm chưa được hoàn thiện. Tuy nhiên, tâm ý của người viết là mong muốn nâng cao nhận thức của mọi người về tầm quan trọng của sức khỏe, hiểu rõ bản chất nguyên nhân gây bệnh, để từ đó có thể tự tìm ra phương pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất cho riêng mình. Các cụ ngày xưa đã có câu: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nên chúng ta đừng để đến khi phát bệnh nặng rồi mới “vái tứ phương”, lúc đó vừa tốn kém tiền bạc công sức, vừa khó chữa, làm ảnh hưởng xáo trộn cuộc sống của bản thân và gia đình.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường ít khi để ý đến những nguyên nhân gây bệnh để phòng chống. Trong cơ thể chúng ta, không ít thì nhiều ai cũng có bệnh tật. Chỉ đến khi cơ thể bị suy yếu thì nhiều mầm bệnh mới bắt đầu phát mạnh ra. Thông thường chỉ đến lúc này chúng ta mới để ý và tìm cách chữa trị cho khỏi.
Có thể lấy một ví dụ:
Vào thời điểm giao mùa từ thu sang đông, đó là lúc thời tiết liên tục thay đổi. Do đó, cơ thể sẽ dễ bị nhiễm phải khí lạnh nếu ăn mặc phong phanh. Từ đó gây nên các bệnh về phổi và đường hô hấp như viêm phổi, ho, cảm lạnh, sốt, ngạt mũi v.v. Lúc này chúng ta mới tìm đến bác sỹ và được cho uống các loại thuốc (thường là kháng sinh) để chữa trị.
Sau nhiều lần như vậy, chúng ta mới có thói quen tìm cách phòng để khỏi bị nhiễm lạnh trở lại. Phương pháp sẽ là uống ít nước đá hơn, tìm cách giữ ấm cơ thể hơn, trang bị đầy đủ quần áo hơn v.v.
Ví dụ trên là cách chữa trị theo Tây y. Tuy nhiên, khi chúng ta sử dụng kháng sinh nhiều lần, tác dụng của thuốc kháng sinh sẽ khiến cơ thể bị mệt mỏi, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và công việc. Chưa kể đến việc uống kháng sinh cũng gây hại cho các bộ phận khác của cơ thể như gan, thận v.v vì chúng phải hoạt động quá khả năng để thải lọc chất độc từ thuốc. Hơn nữa, nhờn thuốc kháng sinh cũng đang là một vấn đề đau đầu cho giới y học hiện đại và chưa tìm ra hướng giải quyết. Có rất nhiều chủng vi khuẩn, virus mới phát sinh với tốc độ cao trong khi việc nghiên cứu ra các dòng kháng sinh mới lại đòi hỏi nhiều thời gian và tiền bạc. Ngoài ra, vấn đề quan trọng nhất là không biết đến bao giờ và đến khi nào thì các chủng vi rus mới không còn phát sinh thêm, trong khi cơ thể con người chỉ có thể chấp nhận được một mức độ thuốc kháng sinh nhất định.
Còn một nhược điểm của tây y nữa đó là việc khó chữa trị các chứng bệnh mãn tính. Hầu hết những người mắc các bệnh mãn tính thường phải xác định là chung sống với căn bệnh của mình. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sức khỏe của người bị bệnh.
Ngoài ra, khi bị mắc bệnh, việc chữa trị bệnh hiện nay đối với người dân gặp rất nhiều khổ sở, phiền toái, khó khăn và tốn kém. Các bệnh viện đều rất quá tải (có nơi một giường 4-5 bệnh nhân). Các bác sỹ thì lại thiếu trầm trọng, hơn nữa một bộ phận các bác sỹ còn thiếu y đức, vì đồng tiền và coi khám bệnh là một ngành kinh doanh. Điều đó gây tốn kém tiền bạc, thời gian, nảy sinh tiêu cực cho bệnh nhân.
Chắc hẳn chúng ta đã từng đọc báo, xem ti vi và thấy có trường hợp vì không có tiền mà bác sỹ sẵn sàng đuổi một người bệnh nghèo vừa mổ ra khỏi bệnh viện. Hay có trường hợp cấp cứu đưa vào bệnh viện mà bác sỹ bắt phải đóng đủ viện phí thì mới tiến hành cứu chữa. Rồi có những bệnh nhân ở xóm “chạy thận” cùng một tương lai mù mịt phía trước và chỉ ngồi chờ chết nếu không còn tiền chạy chữa nữa.
Vậy thì tại sao con người chúng ta lại không quan tâm đến chính sức khỏe của mình bằng cách phòng bệnh trước khi nó xảy đến. Để tránh gặp những phiền toái do bệnh tật mang lại, nếu hàng ngày chúng ta để ý, quan tâm, chịu khó tìm hiểu một chút thì chính bản thân mỗi người cũng là một bác sỹ của riêng mình, có thể phòng tránh được những căn bệnh lẽ ra không đáng có.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nêu lên nguyên nhân mắc bệnh dựa trên cơ sở lý luận và cách tiếp cận của y học phương đông (Đông y). Để từ đó người đọc có thêm thông tin, kiến thức để tự rút ra cách phòng bệnh hợp lý nhất cho riêng mình.
I/. Phân loại nguyên nhân
Theo quan điểm của đông y thì mọi căn bệnh phát sinh đều do mất cân bằng âm dương, ngũ hành tại các tạng phủ và các hệ chức năng trên toàn bộ cơ thể.
Theo đó, nguyên nhân gây bệnh được đúc kết thành 3 loại như sau:
1/. Nguyên nhân bên ngoài (ngoại nhân):
Phong (gió), Hàn (lạnh), Thử (nắng, nóng), Thấp (ẩm ướt), Táo (khô ráo), Hỏa (nhiệt)
Sáu nguyên nhân này được gọi là lục tà ảnh hưởng đến cơ thể con người.
2/. Nguyên nhân bên trong (nội nhân):
Vui (hỷ), Buồn (bi), Giận (nộ), Lo (Ưu), Nghĩ (Tư), Sợ (Kinh), Hoảng (khủng)
Bảy nguyên nhân này gọi là thất tình gây nên bệnh tật ở con người.
3/. Nguyên nhân khác:
Lao động nặng nhọc (Lao quyện);
Chế độ ăn uống bừa bãi (Thực ẩm);
Sinh hoạt nam nữ không hợp lý (Phạm phòng);
Bệnh dịch theo mùa (Dịch lệ);
Sang chấn, té ngã, trùng thú cắn;
II/. Ngoại nhân:
Sáu khí của khí hậu trong điều kiện biến đổi bình thường, ôn hòa thì cơ thể của con người sẽ thích nghi được dễ dàng. Tuy nhiên, khi khí hậu biến đổi không bình thường (trái gió, trở trời) thì biến thành nguyên nhân gây bệnh và lúc này được gọi là lục dâm hay lục tà. Các tà khí này nhân lúc cơ thể suy yếu (chính khí hư) liền xâm nhập vào để gây ra bệnh ở cơ thể (tà khí thịnh).
1/. Tính chất của từng ngoại nhân:
a. Phong khí, phong tà:
Phong (gió) mang tính chất nhẹ bay, linh hoạt, di động, hướng ra ngoài, có tính dương. Phong tà thâm nhập vào cơ thể qua da, lông (bì, mao) để gây các chứng Ngoại phong. Ngoài ra, do chủ khí của Phong là mùa xuân nên Phong tà thường phát vào mùa xuân. Mùa xuân chủ Mộc, ứng với tạng Can của cơ thể. Chứng Nội phong phát sinh khi can bị rối loạn, hư. Vì vậy các bệnh về phong khí đều liên quan đến Can.
Ngoại phong: Phong khí khi hóa tà phạm vào cơ thể sẽ gây ra các chứng bệnh như:
- Toát mồ hôi, sợ lạnh, gây đau đầu, ngạt mũi, ngứa họng (vì có tính dương nên gây bệnh ở phần dương của cơ thể);
- Đau nhức các khớp chân tay, ngứa sẩn mề đay khắp cơ thể (do tính linh hoạt và di động nên gây ra các bệnh có tính chất di chuyển);
- Cảm gió (cảm phong tà) gây nên các triệu chứng co giật, co rút cứng người (do tính chủ động của phong);
Ngoài ra, riêng với Phong tà có thêm đặc tính “Phong là Trưởng trăm bệnh”. Sở dĩ nói như vậy vì Phong là ngoại nhân duy nhất có thể kết hợp với các ngoại nhân còn lại như Hàn, Thấp, Táo, Thử, Nhiệt mà gây nên các bệnh:
- Phong hàn: Cảm lạnh, chảy nước mũi, sợ lạnh, sợ gió. Thời tiết lạnh làm đau dây thần kinh ngoại biên. Dị ứng lạnh và đau khớp do lạnh.
- Phong thấp: Viêm khớp dạng thấp, tỳ suy không thống được huyết làm huyết ứ trệ gây ra tê mỏi, đau nhức dây thần kinh ngoại biên.
- Phong nhiệt, phong thử: Cảm sốt, viêm họng, tiểu vàng, lưỡi đỏ rêu vàng, mắt viêm, đau đỏ.
Nội phong: Do can (gan) bị rối loạn gây ra.
- Can mộc sinh Tâm hỏa nên nếu can khí dương vượng quá gây nên co giật, nhức đầu, chóng mặt, huyết áp cao.
- Can chủ cân (gân) nếu bị hư gây nên liệt, chân tay co quắp, can tàng huyết mà bị hư thì không nuôi dưỡng được gân cơ.
b. Hàn khí, hàn tà:
Hàn tà (lạnh) được phân chia thành Ngoại hàn và Nội hàn. Ngoại hàn phát sinh do khí lạnh, hơi lạnh của mùa đông, trời mưa, về khuya xâm nhập vào cơ thể (phạm vào phần biểu bên ngoài-thương hàn, hoặc nhập thẳng vào tạng phủ-trúng hàn). Nội hàn phát sinh khi dương khí của cơ thể bị suy yếu không chống nổi hàn tà (gọi là dương hư sinh nội hàn). Hàn tà có tính chất là âm tà, nên thường hại vào phần dương của cơ thể. Hàn tà có đặc tính ngưng trệ, co rút. Mùa đông chủ Thủy, ứng với tạng thận của cơ thể.
Ngoại hàn:
- Gây nên mạch trầm trì; đầu cổ cứng, đau; chân tay lạnh;
- Tiêu chảy; nôn do lạnh; bụng đau âm ỉ;
- Gân xương đau nhức, co rút;
Nội hàn:
Hầu hết đều do cơ thể dương hư (nghĩa là không bị hàn do ngoại khí), dễ bị cảm lạnh
- Tỳ dương hư hàn: Tỳ dương hư, không vận hóa được thức ăn, gây nên tiêu chảy, đầy bụng, ăn kém, bụng đau âm ỉ;
- Thận dương hư: Thận ố hàn (Thận ghét lạnh), nên thận dương hư sinh ra sợ lạnh, tay chân lạnh, tiêu tiểu nhiều lần;
- Tâm dương hư: Tâm chủ huyết nên tâm hư không vận chuyển được huyết, gây ứ trệ, làm tắc động mạch vành;
- Phế dương hư: Phế chủ khí, hô hấp nên phế dương hư không thông gây khó thở, hen suyễn;
c. Thử khí, thử tà:
Thử tà (nắng, nóng) là thử khí vượng thâm nhập vào cơ thể gây bệnh. Thử mang tính chất dương, nóng, nhiệt, thăng tán. Thử thường gặp vào mùa hè. Do vậy thử thường gây ra các bệnh nóng nhiệt, tiêu hao tân dịch (toát mồ hôi, tiểu nhiều, họng khô, mắt mũi khô). Thử tà phân chia thành Dương thử và Âm thử. Thử tà có thể kết hợp với Thấp tà hoặc Phong tà.
Dương thử: Còn gọi là Trúng Thử, sinh ra khi cơ thể ở lâu ngoài nắng hoặc không khí nóng. Triệu chứng nhẹ thì bị say nắng, sốt, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, hoa mắt. Nếu nặng thì đột nhiên hôn mê, thở khò khè, ra mồ hôi lạnh, chân tay lạnh, bản chất là nhiệt phạm.
Âm thử: Còn gọi là Thương thử, do mùa hè hoặc bên ngoài nóng nhưng cơ thể luôn ở trong nơi mát quá, lại ăn uống các đồ sống, lạnh làm cơ thể bị âm khí phạm vào lấn át dương khí và gây ra các bệnh: Sốt cao, sợ lạnh, đau bụng đi ngoài. Bản chất bệnh là hàn phạm.
Thử tà kết hợp với các nhân tố khác của lục tà:
Phong Thử: Thử kết hợp với Phong gây nên cảm sốt, khô miệng, họng viêm, sợ gió, sợ lạnh.
Thấp Thử: Thử kết hợp với Thấp gây nên tiêu chảy, kiết lỵ
d. Thấp khí, Thấp tà:
Thấp khí (ẩm ướt) có đặc tính chủ sự nặng nề, trì trệ, dính nhớp. Thấp tà là âm tà, gây hại cho dương khí, cản trở sự vận hành của khí, gây ứ trệ khí trong cơ thể. Thấp tà được chia làm hai loại là ngoại thấp và nội thấp. Ngoại thấp thường gặp vào mùa hè, những nơi có khí ẩm thấp, độ ẩm cao. Nội thấp là do bản chất tạng tỳ bị hư, không vận hóa được thủy dịch, làm ứ đọng gây bệnh. Thấp khí thông với Tỳ khí, các bệnh gây nên bởi thấp tà đều thuộc tạng tỳ.
Thấp tà gây ra các bệnh như phù thũng, tay chân nặng nề, đi lỏng, kiết lỵ. Chứng nội thấp do tỳ hư không vận hóa được thủy dịch nên gây ra các bệnh ở tam tiêu:
Ở thượng tiêu gây ra đầu nặng, mắt hoa, ngực tức đầy.
Ở trung tiêu gây ra bụng đầy trướng, kém ăn, chậm tiêu, chân tay nặng nề
Ở hạ tiêu gây ra phù chân, tiểu ít, tiểu đục, đi lỏng
e. Táo khí, táo tà:
Táo khí có đặc tính chủ sự khô ráo. Tuy nhiên, khi táo khí vượng phạm vào cơ thể chuyển thành táo tà gây nên sự hanh khô, kiệt quệ trong cơ thể. Vì vậy, táo tà làm tổn thương, khô cạn tân dịch, thủy dịch và huyết trong cơ thể. Táo khí cũng được chia làm hai loại là ngoại táo và nội táo. Ngoại táo do ngoại khí gây ra thường vượng vào mùa thu, độ khô ráo cao, xâm phạm qua mũi, miệng, phế và vệ khí. Nội táo phát sinh do cơ thể yếu, tân dịch, thủy dịch và huyết bị thiếu.
Ngoại táo nếu kết hợp với phong gọi là phong táo gây ra các bệnh như: Sốt, sợ lạnh, đầu đau, ho khan, mũi nghẹt, da khô thiếu tiết ít mồ hôi.
Ngoại táo nếu kết hợp với nhiệt gọi là nhiệt táo gây ra các bệnh như: Sốt cao, đầu đau, đại tiện táo, ngực đau, mũi miệng khô, hay khát, sốt xuất huyết, viêm não, mất điện giải sinh học gây nên nhiễm độc hệ thần kinh, hôn mê, xuất huyết.
Nội táo phát sinh khi cơ thể bị suy yếu, tân dịch, thủy dịch, huyết bị thiếu hụt, âm hư từ đó làm da nhăn nheo, môi khô nứt nẻ, móng chân tay khô, khát nhiều …
g. Hỏa khí, hỏa tà:
Hỏa khí có tính chất nóng, bốc lên cao. Hỏa khí vượng vào mùa hạ khi thâm nhập vào cơ thể biến thành hỏa tà gây các bệnh viêm, nhiệt, hao tổn tân dịch, thủy dịch. Hỏa tà cũng được chia thành thực nhiệt và hư hỏa. Thực nhiệt do hỏa khí và nhiệt khí bên ngoài tác động vào cơ thể khiến hỏa khí trong cơ thể bị bùng lên gây nóng. Còn hư hỏa do cơ thể yếu, âm hư, khiến hỏa vượng lên (âm hư hỏa vượng). Hỏa khí thông với Tâm khí.
Thực nhiệt thường gây nên các bệnh như: nhiễm khuẩn, mụn nhọt, viêm phổi, viêm họng, sốt cao, mê sảng, mất nước, sợ nóng, tiểu ít, đại tiện ra máu, chảy máu cam.
Hỏa của Vị vượng gây lở loét ở môi miệng, lợi răng (Tỳ khai khiếu ở miệng)
Hỏa của Can vượng gây đau mắt sưng, mắt đau, mắt đỏ (Can khai khiếu ở mắt)
Hỏa của Tâm vượng gây nên lở loét, sưng rộp ở lưỡi (Tâm khai khiếu ở lưỡi)
Hỏa của Phế vượng gây nên chảy máu cam (Phế khai khiếu ở mũi)
Hỏa của Thận vượng gây nên đau ù tai, tiểu ra máu (Thận khai khiếu ở tai, dịch thoát của thận là nước tiểu)
Chứng hư hỏa do âm hư sinh nội nhiệt, khắc lại thủy, làm tổn hao tân dịch, gây ra khát nước, miệng khô, táo bón.
II. Nội nhân: Thất tình
Nội nhân là những nguyên nhân gây bệnh xuất phát từ tinh thần của con người, được gọi là thất tình:
Vui (hỷ), Buồn (bi), Giận (nộ), Lo (Ưu), Nghĩ (Tư), Sợ (Kinh), Hoảng (khủng)
Tinh thần của con người khi bị kích động mạnh làm mất cân bằng tâm lý (thất tình bị rối loạn) lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến tuần hoàn khí huyết, làm rối loạn chức năng của các tạng phủ mà gây nên bệnh tật.
Mỗi một tạng phủ nhất định có quan hệ qua lại tương ứng với một hoặc một vài yếu tố trong thất tình:
- Can yếu sinh ra giận dữ. Ngược lại, giận dữ lâu ngày làm hại Can.
- Tâm yếu sinh ra vui mừng. Ngược lại, vui mừng lâu ngày làm hại Tâm
- Tỳ yếu sinh ra lo lắng. Ngược lại, lo lắng lâu ngày làm hại Tỳ
- Phế yếu sinh ra buồn phiền. Ngược lại, buồn phiền lâu ngày làm hại Phế
- Thận yếu sinh ra sợ hãi, khủng hoảng. Ngược lại, sợ hãi, khủng hoảng lâu ngày làm hại đến Thận.
Nếu mỗi người chúng ta biết kiềm chế thất tình thì sẽ giảm thiểu được rất nhiều “mầm bệnh” có thể gây hại cho cơ thể. Hãy để tinh thần luôn luôn được minh mẫn, không nên giận dữ quá, không nên vui mừng quá, không nên lo lắng quá, không nên buồn phiền quá, không nên sợ hãi quá.
III. Những nguyên nhân khác
Lao động nặng nhọc (Lao quyện): Cơ thể con người cũng như một cỗ máy, khi lao động nặng nhọc quá mà không có chế độ nghỉ ngơi phù hợp thì cũng giống như cỗ máy bị hoạt động quá công suất, từ đó dẫn đến việc hỏng hóc ở các bộ phận và không thể sử dụng được nữa.
Chế độ ăn uống bừa bãi (Thực ẩm): Chúng ta đều biết rằng đồ ăn thức uống khi được đưa vào cơ thể qua quá trình biến đổi tại hệ tiêu hóa một phần lớn sẽ chuyển thành năng lượng đi nuôi cơ thể. Bên cạnh đó, sẽ có một phần thức ăn không thể tiêu hóa được có tính chất độc hại cho cơ thể sẽ bị tích tụ lại. Nếu ăn uống bừa bãi không kiêng khem thì các chất độc tích tụ lại một cách nhanh chóng trong cơ thể, dần dần gây hại cho các tạng phủ tùy vào tính chất của từng loại thức ăn.
Sinh hoạt nam nữ không hợp lý (Phạm phòng): Theo đông y thì sinh hoạt nam nữ có ảnh hưởng đến cân bằng âm dương trong cơ thể. Nếu sinh hoạt bừa bãi, sinh hoạt quá sớm có thể gây tổn hao nguyên khí của cơ thể. Mà khí huyết là gốc của năng lượng nuôi sống cơ thể, tổn hao nguyên khí cũng làm ảnh hưởng xáo trộn năng lượng cơ thể, mất cân bằng âm dương và gây nên bệnh tật.
Bệnh dịch theo mùa (Dịch lệ): Đây là những căn bệnh phát theo mùa, những bệnh này hay bùng phát thành dịch, có tính chất lan tỏa nhanh và rộng. Ví dụ: Bệnh kiết lỵ, tiêu chảy (thường vào mùa hè), bệnh cúm, ho, sốt vi rút, thủy đậu (thường vào mùa thu, đông),
Sang chấn, té ngã, trùng thú cắn: Đây là những nguyên nhân do tai nạn ảnh hưởng đến phần thực thể: Tay chân, xương khớp, gân cơ v.v. Chúng ta cần cẩn thận trong mọi hoạt động của cuộc sống để tránh được những rủi ro do tai nạn này gây nên.
IV. Kết luận:
Trên đây là những nguyên nhân gây nên bệnh tật thông thường cho con người. Để phòng tránh được những nguyên nhân trên (Lục tà, Thất tình, Nguyên nhân khác), mỗi người chúng ta nên thường xuyên luyện tập để nâng cao năng lượng của cơ thể, thanh lọc cơ thể, giải tỏa khí độc, khí bệnh trong cơ thể. Cơ thể con người cũng như một cỗ máy, chỉ khi chúng ta luôn quan tâm, chăm chút, “bảo dưỡng” thì cỗ máy đó mới vận hành trơn tru không có sai sót.
Theo chúng tôi, tập khí công, ngồi thiền đúng cách, có một người Thầy giỏi giúp đỡ thì chúng ta sẽ phòng tránh lục tà tốt hơn, sẽ kiểm soát được thất tình tốt hơn, có một trí tuệ minh mẫn hơn để từ đó có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Các nguyên nhân gây bệnh trong bài viết này chỉ là những nguyên nhân thông thường gây nên bệnh đối với cơ thể con người chúng ta. Ngoài ra, theo chúng tôi còn có những loại nguyên nhân gây bệnh cho con người rất quan trọng khác nữa. Đó chính là những nguyên nhân có nguồn gốc tâm linh. Đây là một phạm trù rất rộng lớn, chúng tôi sẽ đề cập đến nguyên nhân này trong những bài viết khác.View more the latest threads:
- Dưỡng Tâm
- Thầy Huệ Tâm về với xứ Thanh
- Những kiến thức thực tế khi chứng kiến người...
- Bí ẩn về bão YAGI
- Cách xử lí năng lượng trong quả cầu!
- Thực Hành Chữa Bệnh Viêm Họng Bằng Phương...
- Tản mạn về một số phương pháp chữa bệnh
- Làm Thế Nào Để Báo Hiếu Được Với Những Người...
- Một phương pháp tự vấn bản thân để bình tĩnh
- Những lợi ích của Định Tâm
Sống chẳng ra gì năng đi chùa vẫn tối
Dốc sức hành thiện PHẬT sẽ sáng trong tâm
-
29 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới nhuhainguyen
bocautrang (06-02-2012),Diệu Hồng (04-09-2013),hiepqf3 (07-02-2012),HieuLinh (05-02-2012),HoaXuan (06-02-2012),Hua Toan (29-10-2012),kiencuong304 (11-08-2021),Lam (07-02-2012),lê chí công (12-04-2014),nguoimuonhochoi (06-02-2012),NguyetQuangTu (05-02-2012),PhongThuyGia (06-02-2012),Phucthinh (24-01-2017),Phương Nam (06-02-2012),tam_thuc (02-03-2014),tantrao (06-02-2012),thanhphong (09-07-2014),tinhtam (06-02-2012),Trần Kim Cương (01-06-2018),trungthanh (24-01-2015),TruongKhoat (06-02-2012),turaunt (05-02-2012),ĐINHQUANG HIỆP (06-02-2012)