Kết quả 1 đến 7 của 7
Chủ đề: Núi thiêng Yên Tử
Hybrid View
-
24-09-2011, 14:01 #1
Núi thiêng Yên Tử
Núi Yên Tử (1.068 m) là ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng đông bắc Việt Nam. Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh "đất tổ Phật giáo Việt Nam". Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn. Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi...
Đệ nhất Sư Tổ - Phật Hoàng Trần Nhân Tông
Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308). Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo.
Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330), vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ sách Thạch thất mị ngữ và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như viện Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều... Tại trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334), vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm.
Hành trình thăm viếng Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với một cây cầu đá xanh nối hai bờ suối. Cầu dài 10 m, có kiến trúc không cầu kỳ nhưng toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi. Tục truyền xưa kia vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông rồi tìm đến cõi Phật. Vua Nhân Tông có rất nhiều cung tần và mỹ nữ. Họ đã khuyên ông trở về cung gấm nhưng không được nên đã gieo mình xuống suối tự vẫn. Vua Nhân Tông thương cảm cho họ nên lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan, từ đó con suối mang tên Giải Oan.
Suối Giải oan
Trước sân chùa sum suê từng khóm loa kèn màu hoàng yến chen lẫn màu trắng mịn, xung quanh chùa có 6 ngọn tháp, lớn nhất là tháp mộ sư tổ Trần Nhân Tông, hai bên là tháp mộ sư tổ Pháp Loa và sư tổ Huyền Quang.
Tháp mộ Đệ nhất Sư Tổ - Phật Hoàng Trần Nhân Tông
Tiếp đó tới chùa Hoa Yên (các tên gọi khác: chùa Cả, chùa Phù Vân, chùa Vân Yên) nằm ở độ cao 543 m với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử.
Chùa Hoa Yên
Phía trên độ cao 700 m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi. Sau điểm này là chùa Đồng, tọa lạc trên đỉnh Yên Tử cao 1.068 m. Chùa được khởi dựng vào thời nhà Hậu Lê với tên gọi Thiên Trúc tự. Đầu năm 2007, chùa Đồng mới được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất (cao 3 m, rộng 12 m², nặng 60 tấn) đã được đưa lên đỉnh Yên Tử.
Chùa Đồng
Đứng ở độ cao 1068 m trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa hơn là sông Bạch Đằng.
View more the latest threads:
- Dưỡng Tâm
- Thầy Huệ Tâm về với xứ Thanh
- Những kiến thức thực tế khi chứng kiến người...
- Bí ẩn về bão YAGI
- Cách xử lí năng lượng trong quả cầu!
- Thực Hành Chữa Bệnh Viêm Họng Bằng Phương...
- Tản mạn về một số phương pháp chữa bệnh
- Làm Thế Nào Để Báo Hiếu Được Với Những Người...
- Một phương pháp tự vấn bản thân để bình tĩnh
- Những lợi ích của Định Tâm
Lần sửa cuối bởi nhuhainguyen, ngày 24-09-2011 lúc 14:09.
Sống chẳng ra gì năng đi chùa vẫn tối
Dốc sức hành thiện PHẬT sẽ sáng trong tâm
-
25 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới nhuhainguyen
bocautrang (25-09-2011),boystyle83 (26-09-2011),ducdokieu (25-09-2011),Dungnph (04-04-2023),haile (16-03-2021),Hoan (25-09-2011),HuyenAnh (24-09-2011),KIM.H.GIANG (28-09-2011),lê chí công (28-12-2023),longtadinh (29-03-2014),nghiad99 (01-11-2012),PhongThuyGia (26-09-2011),tamanh (24-09-2011),Tamhuongthien (31-10-2023),thanhphong (08-07-2014),thànhtâm (27-09-2011),Tieutrucxinh (26-09-2011),tindohuongthien (25-09-2011),TruongKhoat (24-09-2011),tudo17 (05-10-2011),vanbac1977 (24-09-2011),ĐINHQUANG HIỆP (24-09-2011)
-
24-09-2011, 14:17 #2
Tam tổ tặng thơ Thầy NNTT
Ba bài thơ Tam tổ tặng Thầy NNTT
Núi cao, trúc ẩn, mây che phủ,
Rồng thiêng kiếp nạn dưới âm u.
Rút gươm chém xuống, xua đêm tổi,
Kết mạch non sông rực sáng ngời.
ST Pháp Loa
Thiên thu nay đã thỏa ước nguyền,
Gươm thiêng trao trọn với niềm tin,
“Định pháp vô minh” ta truyền lại,
Cho con giữ mãi một đức tin.
ST TNT
Đời, đạo song tu mấy kiếp người,
Gieo niềm hạnh phúc đã bao nơi,
Vui mà hành thiện, tâm con thiện,
Buồn mà hành thiện, con thiện tâm.
ST Huyền QuangLần sửa cuối bởi hocdao, ngày 25-09-2011 lúc 19:17. Lý do: Lỗi CT
Sống chẳng ra gì năng đi chùa vẫn tối
Dốc sức hành thiện PHẬT sẽ sáng trong tâm
-
25 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới nhuhainguyen
bocautrang (25-09-2011),boystyle83 (26-09-2011),ducdokieu (25-09-2011),Dungnph (04-04-2023),haile (16-03-2021),Hoan (25-09-2011),huongtamlinh (24-09-2011),HuyenAnh (24-09-2011),kiencuong304 (25-09-2011),lê chí công (28-12-2023),longtadinh (29-03-2014),nghiad99 (01-11-2012),tamanh (24-09-2011),Tamhuongthien (31-10-2023),thanhphong (08-07-2014),thànhtâm (27-09-2011),Tieutrucxinh (26-09-2011),tindohuongthien (25-09-2011),TruongKhoat (24-09-2011),tudo17 (05-10-2011),vanbac1977 (24-09-2011),ĐINHQUANG HIỆP (24-09-2011)
-
26-09-2011, 09:18 #3SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM
TRẦN NHÂN TÔNG
(1258 – 1308)
Ngài tên húy là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu, sanh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử. Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ Thái hậu sau này. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.
Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.
Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.
Ngài thường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.
Con người Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh) và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.
Những khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc.
Năm Quí Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia.
Đến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó.
Đến năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng), và dạy họ tu hành thập thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia.
Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.
Ngày mùng một tháng giêng năm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân Thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Đăng Lục, bảo Quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi.
Từ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”
Ngày mùng năm tháng mười năm ấy, người nhà của công chúa Thiên Đoan lên núi bạch Ngài: “Công chúa Thiên Đoan bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho theo một người thị giả. Ngài mùng mười Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày rằm Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng:
ÂM:
Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân.
DỊCH:
Số đời một hơi thở
Lòng người hai biển vàng
Cung ma dồn quá lắm
Cõi Phật vui nào hơn.
Đến ngày mười bảy, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ Hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Đây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngày mười tám, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Đến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.”
Ngày mười chín, Ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Đêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành.
Ngày hai mươi mốt, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.”
Bảo Sát hỏi:
- Như khi Mã Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao?
Ngài lớn tiếng đáp:
- Ngũ đế tam hoàng là vật gì?
Bảo Sát lại hỏi:
- Chỉ như “Hoa sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao?
Ngài đáp:
- Làm mù măét ngươi.
Bảo Sát bèn thôi.
Suốt mấy hôm trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm.
Đến ngày mùng một tháng mười một, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói kệ đáp:
ÂM:
Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi liễu dã.
DỊCH:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nào có đến đi ấy vậy.
Bảo Sát hỏi:
- Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
- Chớ nói mớ.
Nói xong, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu (1308), thọ năm mươi mốt tuổi.
Pháp Loa theo lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.
Ngài còn lưu lại những tác phẩm:
1. Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục
2. Đại Hương Hải Ấn Thi Tập
3. Tăng-già Toái Sự
4. Thạch Thất Mị Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
Trích trong “ Tam Tổ Trúc Lâm” của tác giả Thích Thanh TừĐường Lương Tri Tâm Huệ đã mở ra
Đem ánh sáng an vui đến mọi nhà
-
16 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới PhongThuyGia
bocautrang (26-09-2011),boystyle83 (26-09-2011),haile (16-03-2021),Hoan (27-09-2011),KIM.H.GIANG (26-09-2011),lê chí công (28-12-2023),longtadinh (29-03-2014),nghiad99 (01-11-2012),nhuhainguyen (26-09-2011),Tamhuongthien (31-10-2023),thanhphong (08-07-2014),Tieutrucxinh (26-09-2011),TruongKhoat (26-09-2011),vanbac1977 (26-09-2011),ĐINHQUANG HIỆP (26-09-2011)
-
26-09-2011, 09:20 #4TỔ THỨ HAI PHÁI TRÚC LÂM
THIỀN SƯ PHÁP LOA
(1284 – 1330)
Sư tên thật là Đồng Kiên Cương, sanh năm Thiệu Bảo thứ sáu (1284) ngày mùng bảy tháng năm, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trước khi sanh Sư, thân mẫu nằm mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm, bà thích lắm nhận lấy. Từ đó, bà biết có thai. Vì trước kia bà sanh liền tám người con gái nên chán ngán, phen này bà cố tình uống thuốc phá thai, nhưng đều vô hiệu. Đến khi sanh ra Sư, bà mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Sư thiên tư dĩnh ngộ miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá.
Niên hiệu Hưng Long thứ hai (1304), Điều Ngự (Nhân Tông) dạo đi các nơi, phá dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng) và ban pháp dược, đến mạn sông Nam Sách. Sư đến lễ bái xin xuất gia, năm này Sư được hai mươi mốt tuổi. Điều Ngự trông thấy bằng lòng nói: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí, vui vẻ tự đến đây.” Ngài bèn cho hiệu là Thiện Lai, dẫn về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn cạo tóc và thọ gới Sa-di. Ngài dạy đến tham vấn với Hòa thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, Sư tìm đủ cách thưa hỏi mà không được khai ngộ. Sư tự đọc bộ kinh Hải Nhãn (có lẽ kinh Lăng Nghiêm) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ khách trần ở sau, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Sư có chỗ vào. Sư từ tạ Hòa thượng Tánh Giác, trở về tham yết với Điều Ngự.
Gặp lúc Điều Ngự thượng đường, Sư ra thưa hỏi liền được tỉnh. Điều Ngự nhận biết bèn cho Sư theo hầu hạ Ngài. Một hôm, Sư trình cả ba bài tụng, bị Điều Ngự chê cả. Sư thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham. Sư vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy bông đèn tàn rụng xuống. Sư chợt đại ngộ. Sư đem chỗ ngộ trình lên Điều Ngự. Ngài thầm nhận ấn khả. Từ đây, Sư thệ tu theo mười hai hạnh Đầu-đà (khổ hạnh).
Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Điều Ngự đem Sư lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát. Thấy chỗ tham học của Sư đã thành đạt, Điều Ngự cho hiệu là Pháp Loa.
Năm Hưng Long thứ mười lăm, Sư được hai mươi bốn tuổi, Điều Ngự trụ ở am Thiên Bảo Quan có bảy tám người thị giả mà Sư là đứng đầu. Điều Ngự vì Sư giảng Đại Huệ Ngữ Lục. Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bố-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự đuổi mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Sư dạy khéo gìn giữ.
Năm Hưng Long thứ mười sáu (1308) vào ngày mùng một tháng giêng, Sư vâng lệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp trụ trì tại nhà Cam Lồ chùa Siêu Loại. Khai lễ có vua Anh Tông và đình thần đến dự. Điều Ngự lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Sư giảng đạo. Lễ xong, Điều Ngự đặt Sư kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử, là đời thứ hai của phái Trúc Lâm. Điều Ngự còn trao cho Sư hơn hai trăm bộ kinh sử và bảo Anh Tông sung cúng vào chùa cả trăm khoảnh ruộng.
Tháng mười một năm ấy (1308), Điều Ngự tịch, Sư phụng mạng cung nghinh xá-lợi về kinh đô. Trở về núi, Sư soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.
Năm Hưng Long thứ mười chín (1311), Sư phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh. Sư giao Bảo Sát làm chủ việc này. Tháng tư, Sư giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó Huyền Quang trình kiến giải, Sư đều chấp nhận.
Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (1313) vào tháng chín, Sư phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang định chức cho tăng đồ. Chúng tăng từ đây mới có sổ bộ, chính Sư là người cầm sổ bộ ấy. Lúc đó, Sư độ hơn một ngàn vị tăng. Về sau cứ ba năm một lần độ tăng như thế.
Năm Đại Khánh thứ tư (1317) đời Trần Minh Tông, vào tháng hai, Sư bệnh nặng. Sư đem y của Điều Ngự và viết bài tâm kệ trao cho Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít hôm, bệnh Sư được lành.
Những hàng Thái hậu, Công chúa, Vương công, quí khanh đều thỉnh Sư truyền giới xuất gia hoặc giới Bồ-tát, cho đến vua Trần Anh Tông cũng xem như đệ tử. Họ đua nhau cúng đất, vàng, tiền để Sư lập chùa, đúc tượng Phật, in kinh quá nhiều, đến nỗi Sư phải tự xin giảm dần những số quyên cúng, thuyền của vua cấp cho Sư tiện việc đi lại và về kinh đô, Sư cũng từ chối không nhận.
Năm đầu Khai Hựu (1329), đời Trần Hiến Tông, Sư mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn, làm thành danh lam thắng cảnh. Sư có làm bài thơ đề là Luyến Thanh Sơn:
Âm: Sơ sấu cùng thu thủy
Sàm nham lạc chiếu trung
Ngang đầu khán bất tận
Lai lộ hựu trùng trùng.
Dịch: Thưa gầy làn nước vút,
Chót vót ánh soi trong.
Ngẩng đầu coi chẳng hết,
Đường tới lại trùng trùng.
Trần Tuấn Khải
Gần mãn đời Sư, kiểm những công tác Phật sự: đúc tượng Phật kể cả lớn và nhỏ có hơn một ngàn ba trăm (1300) vị; tạo đại già-lam được hai ngôi; xây tháp được năm ngọn; lập tăng đường hơn hai trăm (200) sở; độ tăng và ni hơn một muôn năm ngàn (15.000) người; in được một bộ Đại Tạng Kinh; đệ tử đắc pháp hơn ba ngàn (3.000) người; thành Đại Pháp sư có sáu vị.
Năm Khai Hựu thứ hai (1330) ngày mùng năm tháng hai, Sư phát bệnh, trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc tàng viện. Đến ngày mười một thì bệnh rất nặng. Ban đêm Huyền Quang đứng hầu, thấy Sư ngủ mà nói ra tiếng: Hồng! Hồng!
Huyền Quang liền thưa:- Tôn giả nói mớ chăng?
Sư đáp:- Ngủ thì nói mớ, chẳng ngủ thì chẳng nói mớ.
Huyền Quang:- Đâu thể ngủ với thức là một.
Sư bảo:- Ngủ với thức là một.
Huyền Quang:- Đâu thể bệnh cùng chẳng bệnh là một?
Sư bảo:- Bệnh cũng chẳng có can gì y, chẳng bệnh cũng chẳng can gì y.
Huyền Quang:- Tại sao lại có tiếng nói ra ngoài?
Sư bảo:- Nghe tiếng gió thổi cây thì thế nào?
Huyền Quang:- Tiếng gió thổi cây, người nghe chẳng lầm, trong khi ngủ mà nói mớ thì dễ lầm người.
Sư bảo:- Người ngu cũng vẫn lầm tiếng gió thổi cây.
Huyền Quang:- Chỉ một bệnh này đến chết cũng chẳng mạnh.
Sư bèn đạp. Huyền Quang lui ra.
Từ đây bệnh lại giảm xuống. Đến ngày mười ba, Sư trở về viện Quỳnh Lâm nơi phương trượng cũ mà nằm. Đệ tử các nơi dồn về thưa hỏi xin kệ. Sư vẫn đối đáp và tùy người cho kệ không biết mệt mỏi.
Đến ngày mùng một tháng ba, Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân đến thăm bệnh và gọi Thái y đến trị cho Sư.
Đến tối mùng ba bệnh Sư trở lại nặng.
Huyền Quang thưa:- Xưa nay đến chỗ ấy, buông đi là tốt hay nắm lại là tốt?
Sư bảo:- Thảy đều không can hệ.
Huyền Quang:- Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?
Sư bảo:- Tùy xứ tát-bà-ha.
Đệ tử đồng đến thỉnh:- Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ dạy đệ tử sao riêng Thầy không có?
Sư quở trách họ. Giây lâu bèn ngồi dậy bảo đem giấy viết lại. Sư viết một bài kệ:
Âm: Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.
Dịch: Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng.
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
Viết xong, Sư ném bút, an nhiên thị tịch, thọ bốn mươi bảy tuổi. Đệ tử theo lời phó chúc của Sư, đem nhục thể lên nhập tháp tại Thanh Mai Sơn.
Đến ngày mười một tháng ba, Thái thượng hoàng ngự bút ban hiệu Sư là TỊNH TRÍ TÔN GIẢ, tháp tên VIÊN THÔNG, tặng mười lượng vàng để xây tháp và đề một bài thi vãn:
Âm: Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên,
Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền.
Thanh Sơn mạn thảo quan tàng lý,
Bích thọ thâm sương xác thuế thiền.
Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt,
Hiểu mê trượng thất hữu vô yên.
Tương đầu châm giới ta phi tích,
Trác tựu ai chương thế lệ huyền.
Dịch: Đã hết duyên trần thõng tay đi,
Giác Hoàng kim tuyến được truyền y.
Thanh Sơn cỏ mọc che phần mộ,
Cây biếc trong sương để xác ve.
Đêm phủ giảng đường trăng kim cổ,
Ngày ngày trượng thất khói mờ che.
Thân mến biết bao, ôi! Luyến tiếc,
Nhớ công giáo hóa lệ đầy mi.
Những tác phẩm của Sư còn lưu truyền lại có:
- Đoạn sách lục.
- Tham thiền chỉ yếu. (Thiền đạo yếu học?)
- Kim Cương đạo tràng đà-la-ni kinh.
- Tán Pháp Hoa kinh khoa số.
- Bát-nhã tâm kinh khoa.
- và một bài kệ thị tịch…
Trích trong “ Tam Tổ Trúc Lâm” của tác giả Thích Thanh TừĐường Lương Tri Tâm Huệ đã mở ra
Đem ánh sáng an vui đến mọi nhà
-
10 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới PhongThuyGia
bocautrang (29-09-2011),Hoan (27-09-2011),KIM.H.GIANG (26-09-2011),lê chí công (28-12-2023),nghiad99 (01-11-2012),nhuhainguyen (26-09-2011),Tieutrucxinh (26-09-2011),TruongKhoat (26-09-2011),vanbac1977 (26-09-2011),ĐINHQUANG HIỆP (26-09-2011)
-
26-09-2011, 09:42 #5TỔ THỨ BA PHÁI TRÚC LÂMSư tên Lý Đạo Tái, sanh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ là Huệ Tổ dòng dõi quan liêu, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà Sư ở phía nam chùa Ngọc Hoàng. Năm Sư sanh, một hôm thầy trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư Huệ Nghĩa tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội đông vầy, Kim cang Long thần chật nứt, Phật chỉ tôn giả A-nan bảo: “Ngươi thác sanh làm pháp khí cõi đông.” Chợt có ông đạo gõ cửa, ông chợt tỉnh giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa:
THIỀN SƯ HUYỀN QUANG
(1254 – 1334)
Âm: Nhân chi vị đạo khởi tha tầm
Tâm tức Phật hề Phật tức tâm
Huệ địch kiết tường vi ảnh hưởng
Thử sanh tất kiến hảo tri âm.
Dịch: Người mà vì đạo chớ tìm đâu,
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu.
Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng,
Đời này ắt gặp bạn tâm đầu.
Thuở nhỏ Sư dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mến yêu dạy các học thuật. Sư học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ hai (1274), đời vua Trần Thánh Tông, Sư thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy được hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Sư, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả công chúa cho, Sư vẫn từ chối.
Sư được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn ngữ của Sư vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục.
Một hôm, Sư theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Sư chợt tỉnh ngộ duyên trước, khen ngợi quí mến, tự than: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quí như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến?”
Sư mấy phen dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua rất mến trọng Phật giáo, nên sau cùng mới cho. Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều Ngự, được pháp hiệu là Huyền Quang.
Niên hiệu Hưng Long thứ mười bảy (1309), Sư theo hầu Pháp Loa y theo lời phó chúc của Điều Ngự. Sư vâng lệnh trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Sư đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không dưới ngàn người.
Sư thường phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư phẩm kinh, Công văn v.v… Những khoa giáo trong nhà thiền mỗi mỗi đều phải qua tay Sư cả.
Ngày rằm tháng giêng năm Quí Sửu (1313) Vua Anh Tông mời về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Sư dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đây, lập ngôi chùa phía tây nhà Sư để hiệu là chùa Đại Bi.
Sư trở về chùa Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Sư nên cho Điểm Bích là một cung nhân tìm cách gần Sư để lấy bằng chứng đem về dâng vua. Điểm Bích dùng man kế gợi lòng từ bi của Sư, rồi về tâu dối với vua. Vì thế, Sư bị tai tiếng không tốt. Nhưng sau cuộc lễ chẩn tế của Sư, thấy những sự linh nghiệm lạ thường, nhà vua không còn nghi ngờ. Vua liền phạt Điểm Bích làm kẻ nô bộc quét chùa trong cung Cảnh Linh ở nội điện.
Năm Đại Khánh thứ tư (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Điều Ngự và tâm kệ.
Năm 1330, khi Tổ Pháp Loa tịch, Thiền sư Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, bấy giờ Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Tuy nhận trọng trách lãnh đạo Giáo hội, song vì già yếu nên Ngài ủy thác mọi việc cho Quốc sư An Tâm, trở về trụ trì ở Côn Sơn.
Sư trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm. Kế sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày hai mươi ba tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Sư viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám mươi tuổi.
Vua Trần Minh Tông phong thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Những tác phẩm của Sư:
- Ngọc tiên tập
- Chư phẩm kinh
- Công văn tập
- Phổ Tuệ Ngữ Lục
Trích trong “ Tam Tổ Trúc Lâm” của tác giả Thích Thanh Từ
PTG lạm bàn: Cuốn “ Tam Tổ Trúc Lâm” được tác giả Thích Thanh Từ, biên soạn và khảo cứu rất công phu dựa trên những tài liệu lịch sử cũng như dã sử còn xót lại viết về ba vị sư tổ của Trúc Lâm Thiền Phái. Đọc tiểu sử của ba vị Tổ, người đọc dễ nhận thấy là những thông tin, tài liệu viết về sơ tổ và tổ thứ hai của Thiền phái là khá nhiều và chi tiết. Tuy nhiên về tiểu sử của sư tổ Huyền Quang lại khá ít, có nhiều điểm còn khá mơ hồ cần được làm rõ...Dù sao đây cũng là một nguồn tài liệu tham khảo thông tin bổ ích.
Lần sửa cuối bởi PhongThuyGia, ngày 26-09-2011 lúc 09:47.
Đường Lương Tri Tâm Huệ đã mở ra
Đem ánh sáng an vui đến mọi nhà
-
12 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới PhongThuyGia
bocautrang (29-09-2011),Hoan (27-09-2011),lê chí công (28-12-2023),longtadinh (29-03-2014),Nganpham (03-09-2016),nghiad99 (01-11-2012),nhuhainguyen (26-09-2011),Tamhuongthien (31-10-2023),TruongKhoat (26-09-2011),tudo17 (05-10-2011),vanbac1977 (26-09-2011),ĐINHQUANG HIỆP (26-09-2011)
-
29-09-2011, 12:47 #6nhatchimai_2405 Guest
THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hỡi ai quyết chí tu hành,
Núi thiêng Yên Tử, non xanh đang chờ
DẪN NHẬP
Theo dòng lịch sử, chúnta nhìn lại Phật giáo Việt Nam hẳn thấy nổi bật một nét đột phá vô cùng thú vị - một Thiền phái mang tên Việt Nam, với ông Tổ người Việt Nam, lại là một vị vua anh hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng.
Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một lẽ thật bình đẳng không phân chia ranh giới Việt Nam, Ấn Độ, Trung Hoa hay Nhật Bản.... "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh". Song Phật giáo truyền vào mỗi nước, thì mỗi nước có tính dân tộc riêng, có ngôn ngữ, có nếp sinh hoạt, nếp suy nghĩ theo cá tính dân tộc, do đó Phật giáo cũng phải hoà nhập vào mỗi dân tộc để có được sự tiếp thu dễ dàng thích ứng. Chính vì vậy nên mới có Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Tích Lan, vv... Vậy đã gọi là Phật giáo Việt Nam thì nó phải có những nét gì đặc sắc của Việt Nam khiến người nhìn vào đánh giá được đó là Phật giáo Việt Nam? Điều này, điểm qua lịch sử, chúng ta thấy Thiền phái Trúc Lâm - Yên Tử quả thực đã làm nổi bật lên những nét chấm phá của Phật giáo Việt Nam, nếu khai thác đúng mức, chắc rằng nó sẽ đóng góp rất nhiều lợi ích trên đường phát triển của dân tộc và sẽ ảnh hưởng sâu rộng ra ngoài nữa.
Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo Sử luận đã viết: "Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hoá Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình." (Tập I, tr. 482)
Tức là nền Phật giáo Trúc Lâm tự có một nét độc lập của nó, và đó chính là điểm chúng ta cần khai thác và phát huy. Mà nói Phật giáo Trúc Lâm, cũng tức nói đến Thiền phái Trúc Lâm, vì lúc đó không có giáo hội nào khác nữa. Chúng ta là người Việt Nam học Phật, quyết không thể bỏ qua, không hiểu về Phật giáo Việt Nam, trong đó Thiền phái Trúc Lâm - Yên Tử, một của báu của dân tộc càng phải được hiểu rõ.
MẠCH NGUỒN THIỀN PHÁI TRÚC LÂM.
1. XÉT XA VỀ TRƯỚC: Như chúng ta đã biết, Thiền phái Trúc Lâm vốn dung hợp ba dòng thiền đã có từ trước:
*TỲ NI ĐA LƯU CHI-Thếkỷ 6:
Cuối thế kỷ thứ sáu, thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi người Nam Thiên Trúc sang Trung Hoa, đắc pháp với tam tổ Tăng Xán và được Tổ chỉ dạy về phương Nam truyền đạo. Vâng lời dạy của Tam Tổ, Sư đến Việt Nam ở chùa Pháp Vân tháng ba năm Canh Tý (580), sau đó truyền pháp cho thiền sư Pháp Hiền, người Việt Nam mở đầu cho dòng thiền tông "Giáo ngoại biệt truyền" tại đất Việt, truyền thừa được 19 thế hệ.
*VÔ NGÔN THÔNG-Thếkỷ 9:
Do thiền sư Vô Ngôn Thông, người Trung Hoa, đệ tử đắc pháp của tổ Bá Trượng truyền sang. Sách Truyền Đăng Lục gọi là Bất Ngữ Thông.
Năm 820, Sư từ Quảng Châu qua Việt Nam ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Đức, Bắc Ninh, gặp nhà sư Lập Đức tiếp nhận được tông chỉ, Sư truyền pháp và đổi tên là Cảm Thành. Từ đó, Việt Nam có thêm dòng thiền Vô Ngôn Thông, cũng gọi là dòng Kiến Sơ, truyền thừa được 17 thế hệ.
*THẢO ĐƯỜNG-Thếkỷ 11:
Do thiền sư Thảo Đường, một vị tăng được phát hiện trong nhóm tù nhân bắt được của Chiêm Thành mà vua Lý Thánh Tông đã đem quân chinh phạt năm 1069. Sư cũng là người Trung Hoa, thuộc truyền thống của thiền sư Tuyết Đậu - Minh Giác, tông Vân Môn, truyền thừa được 6 thế hệ.
Trên đây là ba dòng thiền đã hội nhập vào một Thiền phái Trúc Lâm. Tuy nhiên nếu xét xa về trước nữa thì mạch nguồn thiền tông này phát xuất từ Phật Thích Ca truyền cho Tổ Ca Diếp và chảy dài xuống.
2.MẠCH NGUỒN TRỰC TIẾP:
Thiền phái Trúc Lâm tuy do Đại Đầu Đà Trúc Lâm làm Sơ tổ, nhưng mạch nguồn Yên Tử vốn bắt nguồn từ thiền sư Hiện Quang (thế hệ 15 dòng Vô Ngôn Thông). Chính Sư là người khai sơn chùa Vân Yên, sau đổi là Hoa Yên, trên núi Yên tử. Sư là đệ tử nối pháp của thiền sư Thường Chiếu (thế hệ 13 dòng Vô Ngôn Thông), trước ở núi Từ Sơn sau mới đến Yên Tử và chính là Tổ ban đầu của dòng truyền Yên Tử.
Kế tiếp thiền sư Hiện Quang là quốc sư Trúc Lâm mà vua Trần Thái Tông gọi là Đại Sa Môn Trúc Lâm trong chuyến vượt thành lên núi của Vua, đã thuật lại trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam. Đa số người đồng cho là thiền sư Đạo Viên hay Viên Chứng (thế hệ 16 dòng Vô NgônThông).
Tiếp theo quốc sư Trúc Lâm là quốc sư Đại Đăng, người đã từng về kinh thành Thăng Long hành đạo và tiếp nhận thêm dòng thiền Lâm Tế từ thiền sư Thiên Phong người Trung Hoa.
Tiếp theo quốc sư Đại Đăng là thiền sư Tiêu Diêu (thế hệ 17 dòng Vô Ngôn Thông), thầy của Thượng sĩ Tuệ Trung, cũng gọi là đại sư Phúc Đường ở tịnh xá Phúc Đường. Tiêu Diêu cũng là người đắc pháp với ngài Ứng Thuận dòng Vô Ngôn Thông (thế hệ 13).
Kế tiếp thiền sư Tiêu Diêu là thiền sư Huệ Tuệ, mà theo Nguyễn Lang, tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, đã cho là Sư vốn làm hoà thượng đàn đầu truyền giới pháp cho vua Trần NhânTôngkhivuaxuấtgia.
Sau thiền sư Huệ Tuệ, mới chính là Đại đầu đà Trúc Lâm Trần Nhân Tông.
Kếđólà:
- Tổ sư Pháp Loa
- Tổ sư Huyền Quang
- Quốc sư An Tâm
- Quốc sư Phù Vân (hiệu Tĩnh Lự)
- Quốc sư Vô Trước
- Quốc sư Quốc Nhất
- Tổ sư Viên Minh
- Tổ sư Đạo Huệ
- Tổ sư Viên Ngộ
- Quốc sư Tổng Trì
- Quốc sư Khuê Thám
- Quốc sư Sơn Đằng
- Đại Sư Hương Sơn
- Quốc sư Trí Dung
- Tổ sư Tuệ Quang
- Tổ sư Chân Trú
- Đại sư Vô Phiền
(Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục, Phúc Điền)
Vậy xét theo dòng truyền Yên Tử thì Đại đầu đà Trúc Lâm thuộc thế hệ thứ sáu, nhưng đến Ngài, Ngài đã thống nhất các thiền phái đã có thành một thiền phái Trúc Lâm, lấy Ngài làm Sơ Tổ. Từ đây, Việt Nam thực sự đã có một dòng thiền Phật giáo của người Việt, do chính người Việt làm Tổ...
Song đó là nói theo truyền thống lịch sử, nếu nói thẳng trong lẽ thật sâu xa, chính bắt nguồn thiền phái Trúc Lâm - Yên Tử là từ sự tỏ ngộ của vua Trần Nhân Tông.
Chính khi vua hỏi Thượng sĩ Tuệ Trung:
- Thế nào là tông chỉ của việc bổn phận?
Thượng sĩ đáp:
- Soi sáng lại chính mình, đó là việc bổn phận, chẳng từ nơi nào khác để được.
Ngay đó vua nhận được tông chỉ Thiền, mở sáng con mắt Đạo. Từ sức sống đó, vua đã sống vượt qua mọi biến chuyển của thế gian, để rồi chuyển mình thành thiền sư, truyền mạch sống cho một dòng thiền Việt Nam chảy mãi đến ngày nay. Nếu không có sứ sống chân thật kia thử hỏi dòng thhiền Trúc Lâm có được mạch sống thiền đúng như nghĩa của nó, hay chỉ là trên hình thức chữ nghĩa? Do đó, khai thác mạch nguồn thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chúng ta không thể chỉ khai thác trên bề mặt lịch sử dễ thấy, hoặc trên hình thức phân ích theo chiều suy nghĩ của tình thường, mà còn phải khai thác phần sâu xa vượt ngoài chữ nghĩa ấy!
Chúng ta hãy lặng lòng lắng nghe lờ mở đầu cho buổi đại tham của sơ tổ Trúc Lâm tại chùa Sùng Nghiêm, tức mở đầu truyền mạch sống thiền cho đại chúng:
" Mở đầu pháp hội, Ngài niêm hương báo ân xong, bước lên toà. Vị thượng thủ bạch chùy, v.v..., rồi Ngài nói:
- Phật Thích Ca Văn vì một "việc lớn" mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt 49 năm chuyển động đôi môi (nói pháp) mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ông lên ngồi toà này, biết nói chuyện gì đây?"
Chúng ta thấy một điểm đặc biệt khác thường. Trước khi nói pháp, Ngài chặn đầu trước, dẫn Phật Thích Ca 49 năm nói pháp nhưng vốn chưa từng nói một lời nào, vậy thì hiện tại sẽ nói cái gì đây? Những điều Ngài sắp nói là có nói hay không?
Chính đây là một cách khéo léo nhằm nhắc nhở người nghe phải thấu qua chữ nghĩa, nghe đến tộ trước khi mở miệng kìa! Đó mớithực là sức sống thiền mà Ngài muốn truyền đạt. Còn chữ nghĩa nói ra là việc bất đắc dĩ, là ngọn ngành về sau, bởi vì người chưa thấu tột cội nguồn kia nên phương tiện phải nói. Song nói mà ý vốn không ở nơi lời. Tông chỉ thiền hay Yếu chỉ giáo ngoại biệt truyền chính đã thổ lộ trong đó. Người lanh mắt hẳn bắt gặp ngay.
Mạch nguồn chân thật của thiền phái Trúc Lâm chính là đó.
Do đó, người muốn thâm nhập mạch nguồn thiền phái Trúc Lâm Yên tử, đòi hỏi phải là một HÀNH GIẢ, không thể là một HỌC GIẢ.
(Trích THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ - TT. THICH THÔNG PHƯƠNG)
-
6 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới nhatchimai_2405
Hoan (30-09-2011),longtadinh (29-03-2014),nghiad99 (01-11-2012),TruongKhoat (29-09-2011),tudo17 (05-10-2011),ĐINHQUANG HIỆP (03-10-2011)
-
29-09-2011, 16:43 #7
Khách
- Ngày tham gia
- Apr 2011
- Bài viết
- 4
- Cảm ơn!
- 18
- Thanked 18 Times in 4 Posts
Cảm ơn anh nhuhainguyen và bạn Phongthuygia đã gửi đến mọi người những thông tin bổ ích. Kính đề nghị các anh đưa chủ đề vào đúng mục để mọi người tiện theo dõi ( Ví dụ : Đề tài về Bát cổ chẳng hạn) Xin Chân thành cảm ơn!
-
Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới VACOPR
Hoan (30-09-2011)