Trang 3 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối
Kết quả 21 đến 30 của 39
  1. #21
    FirePhoenix Guest

    Mặc định

    Em Trường Khoát ơi, có nhiều cách nói khác nhau về không gian cơ bản mà chúng ta đang sống. Chắc em vẫn quen với cụm từ "không gian 3 chiều" hơn là "không gian 4 chiều", lẽ ra chị phải dùng từ "không-thời gian 4 chiều" thì chuẩn hơn. Chị vẫn hay trò chuyện với 1 cô bạn rất hiểu biết về "không gian 4 chiều" thành ra dùng từ đó quen rồi, không để ý là mọi người có thể hiểu nhầm. Chị nói thế bởi có những nơi người ra cho rằng chiều thứ 4 là chiều bí ẩn, còn thời gian tính riêng là thời gian.

    Em đọc đoạn này sẽ hiểu hơn: Trong vật lý, thời gian được mô tả như một chiều, giống như độ dài, rộng và độ cao. Khi bạn đi từ nhà mình tới cửa hàng tạp hoá, bạn đã chuyển động theo một hướng trong không gian, tạo ra sự tịnh tiến trong tất cả các chiều không gian đó - dài, rộng và cao. Nhưng bạn còn tiến lên trong cả chiều thời gian nữa - chiều thứ tư.

    "Không gian và thời gian xoắn lấy nhau dưới dạng một cái khung 4 chiều được gọi là không-thời gian", Charles Liu, một nhà vật lý thiên văn tại Đại học City, New York, phát biểu.

  2. 5 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới FirePhoenix

    snowwhite612 (19-08-2011),thanhphong (31-07-2014),tindohuongthien (04-08-2011),TruongKhoat (01-08-2011)

  3. #22
    Ngày tham gia
    Feb 2011
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    104
    Cảm ơn!
    1,323
    Thanked 918 Times in 90 Posts

    Mặc định

    Hi, Thanks chị Phoenix
    " Không - thời gian 4 chiều" em cũng đã nghe nói đến nhiều. Và có cả những công thức của Enstein biểu diễn nó nữa. Nhưng em chưa thực sự quan tâm lắm, có lẽ để dành nó ở một nơi khác, lúc khác tìm hiểu sẽ hợp lý hơn.
    升日

    Tâm bất minh thì tâm khó định
    Trí bất thành thì lộ khó qua.

  4. 2 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới TruongKhoat

    thanhphong (31-07-2014)

  5. #23
    FirePhoenix Guest

    Mặc định

    Cái ý nghĩ về sự liên quan 4 chiều - đa chiều của tôi có lẽ hơi ấu trĩ, bởi các chiều thời gian không hề quá tách biệt, chỉ là do nhận thức của con người tạo ra sự tách biệt đó thôi. Có khi với các loài khác trong "vạn vật muôn loài" thì không gian 4 chiều lại là thứ cũ mèm thì sao? Tôi nói thế, bởi hồi nhỏ tôi có rất nhiều thắc mắc, tôi thắc mắc tại sao tôi không thể nhìn thấy sóng vô tuyến, hay là cô phát thanh viên ngồi trong TV. Lớn lên, tôi mới hiểu, hoá ra những thứ mình có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy bằng các giác quan thông thường, là quá nhỏ bé so với thế giới vô cùng rộng lớn bên ngoài.

  6. 4 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới FirePhoenix

    ducdokieu (01-08-2011),nhuhainguyen (01-08-2011),thanhphong (31-07-2014)

  7. #24
    Ngày tham gia
    Jul 2011
    Bài viết
    8
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 74 Times in 8 Posts

    Mặc định

    Định đề về vũ trụ

    Khi suy ngẫm về bình diện vật lý, chúng ta có thể đặt ra vài câu hỏi mở rộng. Ngoài các dạng nguyên tử tạo ra bình diện vật lý, còn những dạng “nguyên tử” nào khác hình thành nên các bình diện vật chất không nhìn thấy? Có hay không các bình diện vật chất với mức mật độ cực đại hay cực tiểu? Con người có khả năng chứng minh hay bác bỏ giả thuyết về tính đa chiều thực tại của vũ trụ?

    Qua nhiều tư liệu tôn giáo và khoa học, dường như những lời giải đáp cho các câu hỏi nói trên đã được chuẩn bị sẵn. Các đại sư từ xa xưa đến nay luôn hướng sự chú ý đến những “tầng trời” mà ý thức họ có thể dịch chuyển tới trong khi ngồi thiền, đặc biệt những người chứng ngộ thành Phật đã cho biết rằng: tồn tại “tầng tâm thức” mà khi ý thức con người tập trung ở đó thì sẽ có nhiều cảm nhận siêu việt như vô hạn, trong suốt, trống rỗng, tĩnh lặng và ung dung tự tại trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

    Trong mấy thập niên gần đây người ta bắt đầu nói nhiều đến khả năng xuất thần của con người mà bất kỳ ai cũng có thể đạt được kết quả bằng con đường tập luyện kiên trì theo những phương pháp có sẵn. Hiện tượng xuất thần cho biết rằng, dường như con người là một hệ thống phức tạp các cơ thể hữu hình và vô hình, mỗi cá nhân có thể sử dụng ý chí của mình để tách rời chúng và chuyển dịch ý thức từ cơ thể này đến cơ thể khác trong khi thể xác ngủ bất động. Các nhà xuất thần lão luyện tin rằng, bộ não nói riêng và thân vật lý nói chung không phải là nguồn gốc tạo nên tâm trí mỗi người, chúng chỉ đóng vai trò “hiển hiện” những gì diễn ra tại các bình diện vật chất vô hình. Tồn tại bằng chứng cho thấy rằng, ở các loài động vật và thực vật cũng có mặt hệ thống các cơ thể vô hình.

    Đặc biệt đáng chú ý là nhờ kỹ thuật xuất thần, nhiều cá nhân tin là đã sử dụng các phần cơ thể vô hình của mình để du hành vào các chiều thực tại phi vật lý và phát hiện được những điều hết sức mới lạ. Họ đã tỏ ra vô cùng kinh ngạc trước những gì mắt thấy, tai nghe và cảm nhận trực tiếp.

    Như vậy, con người đã biết rõ nhiều hiện tượng hướng vào các khía cạnh bản chất của vũ trụ. Việc chứng minh yếu tố nền tảng đó của vũ trụ là không cần thiết đối với những người có khả năng đặc biệt, nhưng có lẽ là nan giải đối với nhiều người bình thường và khoa học đương đại. Do vậy, cần phải thừa nhận tính đa chiều thực tại của vũ trụ như một định đề -điều chân lý không thể chứng minh, nhưng là đơn giản và hiển nhiên, được dùng để làm điểm xuất phát trong một hệ thống lý thuyết nhất định. Sau đây là nội dung của định đề đó.

  8. 8 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Nguyệt Linh Linh

    Hoan (17-10-2011),NguyetQuangTu (19-08-2011),nhuhainguyen (02-08-2011),Phương Nam (03-08-2011),thanhphong (31-07-2014),Tieutrucxinh (03-08-2011)

  9. #25
    Ngày tham gia
    Feb 2011
    Đang ở
    Hà Nội, Sđt: 0982615255
    Bài viết
    480
    Cảm ơn!
    2,547
    Thanked 9,454 Times in 536 Posts

    Mặc định

    "Các nhà xuất thần lão luyện tin rằng, bộ não nói riêng và thân vật lý nói chung không phải là nguồn gốc tạo nên tâm trí mỗi người, chúng chỉ đóng vai trò “hiển hiện” những gì diễn ra tại các bình diện vật chất vô hình."

    Điều này lí giải tại sao khi chữa bệnh bằng phương pháp của Khí công tâm linh, thông thường phần linh sẽ được chữa trước sau đó khi phần linh hòa hợp với phần thực thể thì bệnh tật đó ở thực thể cũng sẽ dần được chữa khỏi.
    Sống chẳng ra gì năng đi chùa vẫn tối
    Dốc sức hành thiện PHẬT sẽ sáng trong tâm

  10. 5 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới nhuhainguyen

    Hay Hỏi (02-08-2011),Hoan (17-10-2011),Phương Nam (03-08-2011),thanhphong (31-07-2014)

  11. #26
    Ngày tham gia
    Jul 2011
    Bài viết
    8
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 74 Times in 8 Posts

    Mặc định

    ĐỊNH ĐỀ: Vũ trụ có vô số bình diện vật chất.

    Định đề này khẳng định rằng, ngoài bình diện vật lý còn có vô số bình diện vật chất vô hình mà nhiều người đã trải nghiệm bằng cách riêng của mình. Không cần thiết phải tranhluận về điều này. Nó đã được nhiều người nhận biết. Hoàn cảnh hiện nay cũng giống nhưtrường hợp giả định sau đây: Nếu tuyệt đại đa số con người là mù hoặc điếc bẩm sinh, thì chúng ta cũng sẽ khó tin khi ai đó nói về sự tồn tại ánh sáng hoặc âm thanh. Vấn đề thiết thực hiện nay là phải tìm những phương pháp hiệu quả để tiếp cận và nghiên cứu các bình diện vật chất phi vật lý (không nhìn thấy).

    Có lẽ thiền định và xuất thần là hai cách quen thuộc và dễ được áp dụng để thâm nhập vào các chiều thực tại khác. Chúng ta sẽ dùng NF0, NF1, NF2... để ký hiệu các bình diện vật chất theo thứ tự mức mật độ giảm dần (hay dải tần số tăng dần). Ở đây NF0 chỉ bình diện vật lý, còn NF1 - bình diện vật chất kề cận bình diện vật lý mà con người có thể nhận biết dễ hơn.

    Từ lâu khoa huyền bí đã đưa ra hình ảnh về tính đa chiều thực tại của vũ trụ. Theo thuyết tâm linh, con người có quan hệ trực tiếp với 7 chiều thực tại: cõi Trần, các cõi Trung giới (cõi Âm), Thượng giới, Bồ đề, Niết bàn, Đại niết bàn và Tối đại niết bàn, trong đó “nguyên tử” cõi Trần (khác với khái niệm nguyên tử trong vật lý học) lớn hơn “nguyên tử” cõi Tối đại niết bàn là 712 » 14 triệu lần.

    Để có thể hình dung một cách giản đơn về vũ trụ đa chiều thực tại, lấy ví dụ trực giác sau đây. Trộn đều một ít sỏi và cát, sau đó đổ vào một cái bình đầy nước, tiếp đến bơm thêm không khí vào bình. Như vậy, không gian trong bình chứa đồng thời cả sỏi, cát, nước và không khí. Chúng ta có thể nói rằng sỏi, cát, nước và không khí tồn tại song song với nhau trong bình. Đặc biệt, lớp không khí hầu như trong suốt và trống rỗng đối với các lớp còn lại.

    Các hệ quả

    Xuất phát từ định đề nói trên, chúng ta sẽ suy ra một số hệ quả chủ yếu có quan hệ với các luận thuyết tôn giáo và khoa học. Nội dung cụ thể của những hệ quả đó ít nhiều phù hợp với trải nghiệm tâm linh của các đại sư và các cứ liệu khoa học mà chúng ta đã biết.

    Hệ quả 1 - Bình diện vật lý có mức mật độ vật chất lớn nhất.

    Thật vậy, do vũ trụ có vô số chiều nên tồn tại một bình diện vật chất với mức mật độ dày đặc nhất. Điều hợp lý là bình diện vật chất như vậy có tính hữu hình đối với con người. Theo định nghĩa, đó chính là bình diện vật lý.

    Cần lưu ý rằng, khái niệm “hữu hình” ở đây được biểu thị ở chỗ có thể nhìn thấy trực tiếp(ví dụ với các vật rắn thông thường) hoặc gián tiếp (ví dụ với sóng điện từ, không khí, “lỗ đen”). Rõ ràng, vật chất của bình diện vật lý có các dạng cấu trúc thay đổi rất phức tạp, trong số đó có các vật vô cơ và hữu cơ, các vật vô sinh và hữu sinh. Như vậy, bình diện vật lý chịu sự biến đổi không ngừng.

    Một câu hỏi đơn giản được đặt ra: Sự tồn tại của bình diện vật lý có điểm kết thúc hay không? Dự đoán câu trả lời là có. Sự kiện là ở chỗ vũ trụ có nhiều “lỗ đen” - vùng không gian với lực hấp dẫn cực mạnh, có khả năng hút mọi vật chất ở gần, kể cả ánh sáng (trừ một số tia đặc biệt, ví dụ tia X). Tất cả các nguyên tử vật lý có lẽ đến một lúc nào đó sẽ bị hấp thụ vào các “lỗ đen”, đây chính là thời điểm mà bình diện vật lý chấm dứt tồn tại. Trong trường hợp đó các nguyên tử vật lý được phân rã thành những cấu trúc “mịn” hơn và hoà nhập vào các bình diện vật chất NF1, NF2...

    Hệ quả 2 - Tồn tại một bình diện vật chất phi cấu trúc.

    Thật vậy, do vũ trụ có vô số chiều thực tại nên suy ra sự hiện diện một bình diện vật chất với mức mật độ cực tiểu (hay dải tần số cực đại). Căn cứ vào nhiều ghi chép tâm linh kéo dài hàng ngàn năm đề cập đến những trải nghiệm của các đại sư, có thể xác định bình diện đó không chứa bất kỳ cấu trúc vật chất nào từ bé đến lớn (một “cấu trúc” ở đây được hiểu là có chứa từ hai thành phần). Nói cách khác, trong bình diện vật chất phi cấu trúc chỉ tồn tại những “hạt” vật chất nguyên sơ hay lớp năng lượng nguyên thuỷ của vũ trụ. Chúng ta sẽ gọi bình diện vật chất này là bình diện tâm thức hay chiều tâm thức. Tên gọi này có nguồn gốc tôn giáo. Ở đây từ “tâm thức” đơn thuần chỉ có nghĩa là vật chất phi cấu trúc.

    Như sau này chúng ta sẽ thấy, bình diện tâm thức có vai trò nền tảng đối với toàn bộ vũ trụ. Sự tồn tại và hiệu ứng kỳ diệu của nó đã trở thành yếu tố trung tâm của nhiều thuyết tôn giáo từ xưa đến nay. Căn cứ vào điều kiện phi cấu trúc vật chất và các ghi chép tâm linh, có thể liệt kê một loạt tính chất siêu việt sau đây của bình diện tâm thức:

    1) Thuần khiết - bình diện tâm thức chỉ gồm các “hạt” nguyên sơ thuần nhất không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một bình diện vật chất khác;

    2) Bất biến - mọi sự biến đổi (cấu trúc hoá hay phân rã) đều diễn ra bên ngoài giới hạn của bình diện tâm thức;

    3) Vĩnh hằng - sự tồn tại của bình diện tâm thức không có điểm đầu và điểm cuối;

    4) Phân bố khắp vũ trụ - bình diện tâm thức đóng vai trò “nền” đối với tất cả các bình diện vật chất khác;

    5) Hoàn toàn trong suốt và trống rỗng - con người và mọi thiết bị tuyệt đối không thể nhìn thấy bình diện tâm thức một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

    6) Tĩnh lặng tuyệt đối - vắng mặt mọi sự nhiễu loạn;

    7) Phi thời gian - không có dòng chảy thời gian vì vắng mặt mọi quá trình vật chất (thời gian là thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra theo một trật tự nhất định);

    8) Phi không gian - không có quảng tính như dài ngắn, rộng hẹp, cao thấp vì vắng mặt mọi cấu trúc vật chất;

    9) Nguồn gốc vạn vật - tất cả sự vật của vũ trụ đều được sinh ra từ đó;

    10) Tạo ra “hiệu ứng tâm thức” - tác động lên mọi cấu trúc vật chất, được thể hiện qua các hình thái “nhận biết” từ dạng đơn giản nhất như phản ứng, cảm ứng... cho đến dạng phức tạp như ý thức, tình yêu, sáng tạo...


    Có thể coi vật chất của lớp tâm thức là “sóng tâm thức”. Các cấu trúc vật chất càng bé càng dễ tương tác với sóng tâm thức. Bình diện tâm thức như thể một đại dương vật chất - sóng, tồn tại vĩnh hằng và có vai trò đặc biệt đối với mọi quá trình hình thành và tiến hoá của vũ trụ nói chung, cũng như tạo ra sự sống từ các dạng thô sơ nhất cho đến các dạng phức tạp nhất, trong số đó có con người.

    Việc chỉ ra sự tồn tại của bình diện tâm thức là một kết luận có ý nghĩa thiết thực đối với cả tôn giáo và khoa học. Bằng những thể nghiệm tâm linh và suy ngẫm kiên trì, một số đại sư từ lâu đã nhận thức được sự hiện hữu “Cái đó” trong mối quan hệ vô cùng xa lạ và gần gũi, vô cùng bí ẩn và hiển nhiên, dường như rất cao xa nhưng lại gắn bó mật thiết, mọi cá nhân đều có khả năng tiềm tàng tiếp cận “nó” tại bất kỳ thời điểm nào của cuộc sống. Có điều đó là vì vật chất tâm thức thẩm thấu vào mọi cấu trúc hữu hình và vô hình với kích thước bất kỳ.

    Dựa trên khái niệm về bình diện tâm thức, khoa học có thể mở rộng tầm nhìn đối với nhiều lĩnh vực nghiên cứu, đặc biệt là tìm hiểu về nguồn gốc, động lực và quá trình tiến hoá của vũ trụ nói chung cũng như quá trình phát sinh sự sống trên Trái đất của chúng ta và tại các hành tinh khác ngoài Hệ mặt trời.

    Chính ý tưởng về bình diện tâm thức được lấy ra từ các ghi chép tâm linh liên quan đến những người đã chứng ngộ thành Phật. Nội dung cốt lõi của các giáo lý như vậy luôn luôn hướng tới một đối tượng siêu việt nhất định mà các đại sư hết sức tôn kính và bền bỉ tu luyện để hoà nhập vào đó. Rõ ràng, bức tranh đầy đủ mô tả vũ trụ chỉ có thể thu được từ việc kết hợp các ý tưởng về vũ trụ đa chiều thực tại cũng như sự hiện diện một lớp vật chất vĩnh cửu đóng vai trò nguồn chất liệu nguyên thuỷ và động lực sinh thành vạn vật.

    Chúng ta sẽ vô cùng kinh ngạc nếu biết rằng, trước đây gần 25 thế kỷ, nhà triết học Socrates đã có ý nghĩ về “tự tính” tựa như bình diện tâm thức. Phép tư duy của ông là đi tìm tự tính của mọi sự vật thông qua các hiện tượng đơn lẻ. “Hiện tượng” là cái có sinh - thành - hoại - diệt, còn “tự tính” là cái vĩnh hằng, đích thực, độc lập và đứng sau mọi hiện tượng. Socrates là người đầu tiên nêu rõ mối quan hệ giữa tự tính và hiện tượng. Ông cũng cho rằng, sự hiểu biết về hiện tượng chưa phải là tri thức đúng đắn, còn tự tính thì khó nắm bắt, nên ông coi mình “không biết gì cả”.

    Một số nhà khoa học khác cũng đã có những tư tưởng đáng chú ý. Leibniz, người theochủ nghĩa duy linh khách quan, cũng đã đi đến cách tiếp cận gần với khái niệm về bình diện tâm thức. Ông đã nêu lên định đề về sự hiện hữu một cơ sở tâm linh “khách quan” khác với ý thức con người và độc lập với ý thức con người. Cơ sở tâm linh khách quan đó cũng giống như Ý niệm tuyệt đối của Hegel hay Thượng Đế của Platon. Trong trường hợp này, Thượng Đế là siêu việt đối với vũ trụ và không đồng nhất với vũ trụ. Theo Leibniz, tồn tại các “đơn tử” là những chất không thể phân chia được, thuộc về tinh thần, tạo nên toàn bộ vũ trụ.

    Những người theo quan điểm của cơ học lượng tử cũng đã tiếp cận rất gần với khái niệm về bình diện tâm thức. Họ nói đến một ngân hàng năng lượng tự nhiên vô hạn mà từ đó xuất hiện các “hạt ma” (chúng tồn tại với thời gian cực ngắn, thực tế không thể phát hiện ra).

    Hệ quả 3 - Tồn tại một lớp vật chất trung gian giữa hai bình diện vật chất liền kề.

    Cần nhắc lại rằng, khái niệm “lớp vật chất” ở đây có nghĩa giống như “lớp sóng” - mọi sóng cùng tồn tại trong một không gian nhưng mỗi lớp sóng được xác định bởi dải tần số của nó; tương tự, toàn bộ vật chất cùng tồn tại trong một không gian nhưng chúng được nhận biết theo mức mật độ. Sự tồn tại lớp vật chất trung gian được suy diễn như sau. Vì hai bình diện liền kề có vật chất khác biệt nhau về mức mật độ, nên giữa chúng phải tồn tại một lớp trung gian đóng vai trò phân cách. Có thể dự đoán rằng, tại lớp vật chất trung gian diễn ra những quá trình biến đổi nhất định (cấu trúc hoá hay phân rã các phần tử cơ sở) có quan hệ đến hai bình diện liền kề tương ứng.

    Một số cá nhân có kinh nghiệm xuất thần đã quan sát được lớp trung gian giữa bình diện vật lý (NF0) và bình diện kề cận (NF1).

    Hệ quả 4 - Các bình diện vật chất đã được tạo thành theo trật tự mức mật độ tăng dần.

    Hệ quả này được suy diễn như sau. Vì bình diện tâm thức là phi cấu trúc và tồn tại vĩnh hằng nên nó là bình diện vật chất duy nhất tồn tại đầu tiên. Lớp vật chất trung gian kề cận bình diện tâm thức đã được tạo thành từ nguồn năng lượng nguyên thuỷ đó. Tiếp đến, mỗi bình diện vật chất nhất định đều được sinh ra từ lớp trung gian kề trước, bởi vì các cấu trúc cơ sở tương ứng (tựa “nguyên tử”) phải được hình thành từ “chất liệu” phù hợp và có sẵn. Quá trình đó diễn ra cho đến bình diện vật lý.

    Trên đây là các khía cạnh chủ yếu của “lý thuyết về vũ trụ đa chiều thực tại”. Nói một cách ngắn gọn, lý thuyết này gồm 3 điểm chính sau đây:

    - Toàn bộ vật chất được thể hiện theo vô số lớp, mỗi lớp được đặc trưng bởi mức mật độ hay dải tần số rung động của các “nguyên tử” tương ứng và đóng vai trò một chiều thực tại của vũ trụ;

    - Bình diện tâm thức là nguồn năng lượng nguyên thuỷ, nó là lớp vật chất phi cấu trúc chứa các hạt nguyên sơ với nhiều tính chất siêu việt;

    - Bình diện vật lý là vỏ cứng của vũ trụ, nó là lớp vật chất có mức mật độ các nguyên tử dày đặc nhất.

    Rõ ràng, lý thuyết về vũ trụ đa chiều thực tại trên đây không chứa đựng bất kỳ yếu tố nào có liên quan đến một thực thể siêu phàm với nhân tính, năng lực và trí tuệ tuyệt đối. Điều này có ý nghĩa khách quan trong việc xem xét các hiện tượng xảy ra xung quanh chúng ta.

    Các ý tưởng về vũ trụ đa chiều thực tại


    Đối với các nhà khoa học thế giới, ý tưởng về vũ trụ đa chiều thực tại hay vũ trụ song song đã xuất hiện cách đây 7 thập niên. Vào năm 1935, tác giả thuyết tương đối là Einstein và trợ lý của ông là Nathan Rosen đã cho công bố một bài báo liên quan đến “lỗ đen”. Họ đề xuất rằng, thay vì đó là kẽ hở của không - thời gian đơn giản như ban đầu người ta tưởng thì “lỗ đen” chính là “cầu nối” một vũ trụ con này với một vũ trụ con có thể khác. Trong vật lý học hiện đại, khái niệm này được coi là “Cầu nối Einstein - Rosen”.

    Ý tưởng trên đây có ảnh hưởng nhất định đến các nhà khoa học khác theo hướng tìm kiếm vũ trụ con song song. Vào năm 1951, nhà vật lý Hugh Everett cho rằng nhiều thế giới hay vũ trụ con cùng tồn tại với chúng ta nhưng không thể đồng thời thâm nhập được. Theo Everett, mỗi thế giới hay mỗi chiều thực tại đều có chứa một bản khác nhau của cùng một người đang sống và thực hiện nhiều hành động khác nhau trong cùng một thời điểm. Lý thuyết này gây ra bàn cãi rất nhiều, nhưng nó đưa đến một cách giải thích thực tại lượng tử.

    Một công trình khác về “lỗ đen” cũng đã được công bố vào năm 1961 bởi Kruscal. Người này đã trình bày bản đồ về “lỗ đen”, chỉ ra mối nối lẫn nhau giữa vũ trụ con vật lý và các vũ trụ con vô hình.

    Năm 1963, nhà vật lý và toán học Roy P. Kerr đã xây dựng các phương trình chính xác liên quan đến sự quay của “lỗ đen”. Từ đó suy ra sự tồn tại của vô số vũ trụ con song song mà tất cả chúng đều nối trực tiếp với “lỗ đen”. Kerr giả định là tồn tại một chuỗi vô hạn mảnh chắp của vũ trụ trải rộng đồng thời về quá khứ và tương lai.

    William Buhlman, một người thực hành khả năng xuất thần của con người, vào năm 1996 đã viết trong cuốn Adventures beyond the body (Phiêu lưu ngoài cơ thể) rằng, vũ trụ là một sự thâm nhập đa chiều của năng lượng liên nối lẫn nhau, có thể được phân tách như không gian sóng. Ông tin rằng, mỗi đối tượng ở bình diện phi vật lý (vô hình) bao gồm một ma trận năng lượng ánh sáng thay vì năng lượng phân tử. Buhiman đã nói đến bình diện phi vật lý NF1 (kề cận bình diện vật lý) trên cơ sở kết quả quan sát của ông trong khi xuất thần. Đây là thế giới năng lượng song song có hình thái gần như đồng nhất với bình diện vật lý. Nó không thể bị phân tách theo không gian và thời gian, nhưng có thể phân biệt được bằng tần số rung động hay mật độ năng lượng. Tại bình diện này hiện hữu các khuôn hay bản sao năng lượng của các đối tượng vật lý. Tuy nhiên, cùng các cấu trúc phi vật lý đó tồn tại hầu như độc lập với bình diện vật lý. Ví dụ, một ngọn nến đang cháy có thể bị thổi tắt ở bình diện NF1, nhưng vẫn sáng ở thế giới vật lý.

    Còn có nhiều ý tưởng khác nói về tính đa chiều thực tại của vũ trụ hay đề cập đến những thế giới vô hình tồn tại song song với bình diện vật lý. Tuy vậy, chưa thấy tài liệu nào xem xét bình diện tâm thức với vai trò là nguồn chất liệu nguyên thuỷ của vũ trụ và là động lực sinh thành các cấu trúc vật chất muôn hình muôn vẻ, trong đó có các cơ thể sống nói chung và con người nói riêng.

    Khái niệm về khoa học tâm linh

    Thuật ngữ “khoa học tâm linh” cần được sử dụng để chỉ lĩnh vực nghiên cứu về lý thuyết và thực nghiệm có quan hệ đến nền tảng của sự tồn tại nói chung, kể cả các bình diện vật chất phi vật lý (không nhìn thấy bằng mắt thường). Thành phần quan trọng nhất của khoa học tâm linh có lẽ là thuyết vũ trụ đa chiều thực tại mà cốt lõi của nó là kết luận về sự hiện hữubình diện tâm thức - lớp vật chất phi cấu trúc đóng vai trò chất liệu nguyên thuỷ và động lực toàn năng tạo nên mọi sự vật của vũ trụ.

    Các cách tiếp cận và quá trình nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học tâm linh sẽ có những đặc thù hoàn toàn mới so với khoa học thực nghiệm trong bình diện vật lý. Điểm nổi bật củakhoa học tâm linh hiện nay là khi tiến hành khảo sát và thực nghiệm ở những chiều thực tại năng lượng khác nhau đòi hỏi phải có sự tham gia trực tiếp của con người như một cỗ máy đa chiều tinh tế và đồng thời có thể làm nhiệm vụ của người nghiên cứu. Không thể tìm hiểu được các chiều thực tại năng lượng nếu không có những thiết bị đa chiều phù hợp. Hy vọng là các phương tiện kỹ thuật như vậy có thể sẽ được sáng chế ra trong một tương lai không xa.

    Nhiều tư liệu khoa học và tôn giáo đã được tích luỹ từ xa xưa đến nay cho thấy rằng, việc tiếp cận và nhận diện các thế giới vô hình không đến nỗi quá khó khăn. Rõ ràng, các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học tâm linh sẽ có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với đời sống tinh thần và vật chất của mỗi cá nhân nói riêng và xã hội nói chung.

  12. 9 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Nguyệt Linh Linh

    Hạt Bồ Đề (04-08-2011),Nguyen XY (02-11-2011),NguyetQuangTu (19-08-2011),nhuhainguyen (04-08-2011),Đỗ Tương (04-08-2011)

  13. #27
    Ngày tham gia
    Jul 2011
    Bài viết
    8
    Cảm ơn!
    0
    Thanked 74 Times in 8 Posts

    Mặc định

    Quả thật, trên đây là những điều tôi vô cùng tâm đắc. Mong nhận được sự chia sẻ quan điểm của tất cả các bạn.

  14. 4 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Nguyệt Linh Linh

    nhuhainguyen (04-08-2011),thanhphong (31-07-2014),tindohuongthien (08-08-2011)

  15. #28
    Ngày tham gia
    Apr 2011
    Bài viết
    37
    Cảm ơn!
    23
    Thanked 414 Times in 36 Posts

    Mặc định

    Bài viết của bạn Linh Linh rất hay, giải thích mọi hiện tượng rất có tính khoa học. Mình rất thích phần giải thích về các bình diện vật chất. Và sự hiện hữu của bình diện tâm thức là không có "cấu trúc liên kết" mà chỉ là các "hạt nguyên sơ" tồn tại trong đó. Đúng là hiện nay khoa học tâm linh mới chỉ có thể khảo sát đánh giá và thực nghiệm thông qua "cỗ máy" là con người (chỉ một số người có khả năng cảm nhận về thế giới tâm linh) mà chưa chế tạo được một "thiết bị đa chiều" nào khác.
    Mình hơi băn khoăn vậy có phải khi tham gia thực nghiệm bằng khả năng xuất thần nghĩa là con người đã tách bình diện tâm thức của bản thân mình để hòa chung với bình diện tâm thức của vũ trụ? Và có phải lúc này thì cơ thể vật lý của con người chỉ là một "cái áo" được cởi bỏ ra còn bản thân con người đó đã trở về với đúng bản chất của mình? Và đã là "cái áo" thì cũng có thể thay cái khác phù hợp hơn? Điều này có lẽ gợi mở ra tại sao con người lại có nhiều kiếp khác nhau và con người khi có mặt ở trên đời đều mang một nhiệm vụ nào đó?
    Lần sửa cuối bởi Hạt Bồ Đề, ngày 04-08-2011 lúc 11:43.
    Kiếp luân hồi đắm chìm trong bể khổ
    Con vươn mình tìm ánh sáng lương tri

  16. 2 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới Hạt Bồ Đề

    thanhphong (31-07-2014)

  17. #29
    Ngày tham gia
    Feb 2011
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    442
    Cảm ơn!
    2,929
    Thanked 13,623 Times in 446 Posts

    Mặc định

    Theo mình Vật chất phi vật lý không những không nhìn thấy được bằng mắt thường, mà các thiết bị hiện đại hiện nay cũng chưa phát hiện được. Còn sự "xuất thần" mà H.B.Đ nhắc đến, chính là sự hoà đồng vào vũ trụ. Khi chúng ta hoà đồng vào vũ trụ thì sẽ cảm nhận được nhiều điều trong vũ trụ.
    Muốn thiền, thiền phải có duyên,
    Muốn tu, muốn luyện, phải chuyên tâm này.

  18. 6 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới hocdao

    Hoan (17-10-2011),thanhphong (31-07-2014),tindohuongthien (08-08-2011),ĐINHQUANG HIỆP (08-08-2011)

  19. #30
    thuận tâm Guest

    Mặc định

    bạn T.K ơi ! tôi vui vì các bạn tranh luận rất sôi nổi , việc bạn kết thúc bằn bốn câu thơ của thầy đó là vấn đề... tôi đã học đươc rất nhiều ở các bạn . chúc các bạn thành tiến trên đường đạo lẫn đường đời

    vui mà chia sẻ vui sẽ nhân đôi.
    buồn mà chia sẻ buồn vơi một nửa.

  20. 2 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới thuận tâm

    thanhphong (31-07-2014)

Trang 3 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •