Kết quả 1 đến 2 của 2

Threaded View

  1. #2
    Ngày tham gia
    Feb 2012
    Bài viết
    126
    Cảm ơn!
    1,228
    Thanked 2,436 Times in 124 Posts

    Mặc định

    .
    1.2 Sự chuẩn bị của quân và dân Đại Việt:
    Những năm trước khi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 (1285) nổ ra là một khoảng thời gian không hề yên ả với nước Đại Việt. Trái lại, đây thời kỳ cả nước phải không ngừng chuẩn bị tinh thần, sức người, sức của và đặc biệt là cuộc chiến ngoại giao đầy cân não trước “Thiên Triều”.

    Từ năm 1267, sứ giả Nguyên Mông đã tới Đại Việt với thái độ ngạo nghễ, mang theo những yêu sách phi lý, gọi là “lục sự”, bao gồm:
    1. Vua Trần phải đích thân sang chầu vua Nguyên trên đất Nguyên.
    2. Vua Trần phải cho con hay em sang làm con tin ở Nguyên.
    3. Phải kê khai dân số nộp cho Nguyên.
    4. Phải chịu các quân dịch của quân Nguyên.
    5. Phải nộp phú thuế cho nhà Nguyên.
    6. Phải để cho triều Nguyên đặt (chức) Đạt lỗ hoa xích, tức đặt quan lại người Mông Cổ để giám sát cai trị nước Đại Việt.

    Trong 6 điều trên, Nguyên Thế Tổ (tức Hốt Tất Liệt) đặc biệt chú ý nhất tới việc “Vua Trần phải đích thân sang chầu vua Nguyên trên đất Nguyên”. Đây chính là một phép thăm dò sự quy phục của Nguyên Triều với một nước mà họ đang nhắm tới trước khi động binh. Với các yêu sách trên, vô hình chung sẽ biến một nước độc lập trở thành một thuộc quốc của Nguyên Mông. Nội dung của những điều trên vừa để hạ thấp Quốc thể của một đất nước có chủ quyền (điều 1, 6, …) vừa làm suy yếu nguồn lực (điều 4, 5,…), vừa có thể chi phối các quyết định đối nội đối ngoại (điều 2, 6,…) vừa đe dọa tới an ninh đất nước (1, 3, 6,…). Nếu làm trái lại, họ sẽ có cớ để tăng dần sức ép ngoại giao cho tới khi chính thức xảy ra chiến tranh.

    Trước những đòi hỏi trực diện, thô bạo và thâm độc đó, mặc dù vừa giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến lần thứ 1, nhà Trần vẫn duy trì chính sách ngoại giao mềm mỏng nhưng cũng rất kiên quyết. Nước Đại Việt vẫn kiên trì cử sứ giả sang triều cống theo thông lệ trước đây, tương tự như với nhà Tống. Với những yêu sách trên, vua Trần khéo léo từ chối.

    Càng về sau, những đợt sứ thần nhà Nguyên sang càng thể hiện sự đe dọa, hống hách. Song vua Trần vẫn không run sợ, trái lại có những lần nhà vua kiên quyết bắt giam, sai trói sứ giả đuổi về nước.

    Khắp cả nước Đại Việt, tinh thần sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh trường kỳ với quân giặc ngày một nâng cao. Từ cuối năm 1282 (hơn 2 năm trước khi chiến sự chính thức nổ ra), sau khi nhận được các thông tin tình báo về ý đồ quân sự của nhà Nguyên, vua Trần đã triệu tập Hội nghị quân sự tại Bình Than để bàn kế đánh phòng và chia quân giữ nơi hiểm yếu. Các tướng lĩnh phạm tội trước đây (ví dụ như tướng Trần Khánh Dư) đều được tha tội để đến hội nghị bàn việc. Có thể nói, cuộc chiến này đã được dự kiến từ rất lâu và chiến lược chống giặc đã dần được nhà Trần hình thành và chuẩn bị từ trước.

    Khi cuộc chiến sắp nổ ra (đầu năm 1285), Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông đã mời những bậc tuối cao có uy tín trong cả nước về điện Diên Hồng để trình bày chủ trương của triều đình. Khi được vua hỏi có nên đánh lại quân Nguyên hay không, thì các phụ lão đã "vạn người cùng nói như từ một miệng": "Đánh!"

    Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương đã viết bài Hịch tướng sĩ đễ sốc lại tinh thần quân sĩ, sẵn sàng cho cuộc chiến sống còn. Nhiều chiến binh Đại Việt đã thích chữ “Sát Thát” trên cánh tay để thể hiện tinh thần quyết tử với giặc. Sách lược vườn không nhà trống được thực hiện khẩn trương, nhân dân được di tản.

    Toàn thể Đại Việt đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến quy mô mang tính sinh tồn.

    (còn tiếp)

    .

  2. 6 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới ThanhTrung90

    bần tăng (06-11-2024),haixuyentb (20-11-2024),THANHTINH (11-11-2024),tiendung23680 (10-11-2024),tuluyenthantam (09-01-2025),TuMinh (11-11-2024)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •