Kết quả 1 đến 3 của 3
-
28-12-2023, 12:57 #1
Nhập môn
- Ngày tham gia
- Feb 2012
- Bài viết
- 126
- Cảm ơn!
- 1,228
- Thanked 2,436 Times in 124 Posts
Những lần Dân tộc ta đứng trước thử thách bị đồng hóa
.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, Dân tộc Việt đã đương đầu với rất nhiều cuộc chiến tranh sinh tồn. Song song với những binh lửa cam go trên chiến trường, cuộc chiến giữ gìn bản sắc, tiếng nói và ý thức Dân tộc cũng không kém phần thử thách. Bởi đây là những điều có ảnh hưởng lớn lao tới khát khao giành độc lập cho Dân tộc trước những kẻ xâm lăng ngoại quốc.
Trong khuôn khổ bài viết này, ThanhTrung90 xin vắn tắt lại một số cuộc chiến chống đồng hóa của Dân tộc ta trong lịch sử.
1. Giữ gìn bản sắc và tiếng nói trong thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc:
Có thể nói, nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh khổng lồ với mức độ phát triển rất cao so với Thế giới trong nhiều thiên nhiên kỷ thuộc thời cổ đại, trung đại. Cho tới ngày nay sức ảnh hưởng của nền văn minh này với toàn cầu vẫn rất to lớn.
Trong quá khứ, đã có nhiều dân tộc đã từng bị đồng hóa và sát nhập vào Trung Hoa như các tộc Mân Việt, Điền Việt, Ngô Việt, … ở miền nam Trung Quốc, một bộ phận người Mông Cổ, Mãn Thanh ở phía bắc Trung Quốc,… Đó là do sức ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn minh Trung Hoa, bất chấp cả những trường hợp Trung Quốc (thời đó) bị đô hộ (như Nguyên Mông, Mãn Thanh là các ví dụ về sự “đồng hóa ngược” này).
Sau khi Triệu Đà xâm lược nước ta (năm 203 trước Công nguyên), Triệu Đà đã ép buộc dân ta sử dụng ngôn ngữ Hán, mở trường dạy người Việt học chữ Hán. Từ đó trở đi, trong suốt khoảng 1000 năm, chữ Hán và tiếng Hán là ngôn ngữ chính thức của chính quyền cai trị. Họ đưa những làn sóng di cư của người Hán sang đất Âu Việt và Lạc Việt mang theo văn hóa, tập tục sang nơi đây. Mục đích của cả quá trình đó là đồng hóa hoàn toàn những tộc Việt cuối cùng trong cộng đồng Bách Việt xa xưa.
Tuy nhiên, người Việt đã cho thấy sức mạnh sinh tồn của mình trong suốt một thiên nhiên kỷ Bắc thuộc. Những cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống ách đô hộ của phương Bắc liên tục nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Bí, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, … tuy chỉ mang lại nền độc lập rất ngắn ngủi cho Dân tộc nhưng đã khẳng định và củng cố thêm khát vọng Độc lập của người Việt.
Song hành cùng những cuộc kháng chiến mãnh liệt ấy, là sự mưu trí, kiên trì của người Việt trong cuộc chiến giữ gìn bản sắc. Mặc dù chính quyền cai trị bắt buộc sử dụng ngôn ngữ Hán, phổ biến văn hóa Trung Hoa, nhưng sau lũy tre làng, những người Việt vẫn dạy con cháu mình tiếng nói mẹ đẻ, vẫn truyền từ đời trước sang đời sau câu truyện về bọc trăm trứng và nguồn gốc tộc Việt, truyện sự tích trầu cau (cùng tập tục nhai trầu), truyện Mai An Tiêm, … có từ thời Hùng Vương, truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy cùng bài học đau xót của Dân tộc.
Người Việt đã học chữ Hán và sử dụng Hán tự cho đời sống hàng ngày để truyền và lưu trữ thông tin, giao tiếp văn thư. Tuy nhiên người Việt học chữ nhưng không học tiếng Hán, mà dần dần tạo ra phiên âm riêng của mình là tiếng Hán Việt. Những từ Hán Việt được phát âm và sử dụng theo ngữ pháp của người Việt. Điều này không những làm mất đi tiếng Việt, mà người lại đã làm giàu thêm ngôn ngữ cho Dân tộc.
Bên cạnh đó, những người Hán di cư sang đất Việt trong suốt giai đoạn đó cũng dần dần hòa nhập lối sống vào xã hội chung của người Việt. Điều này xảy ra xuất phát từ những điều kiện khách quan như thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu và từ sức sống, ý thức mạnh mẽ về bản sắc Dân tộc của người Việt. Mặc khác, chúng ta cũng tiếp thu những điều đặc sắc, giúp hoàn thiện văn hóa Dân tộc trong thời kỳ đêm trường bị đô hộ.
(còn tiếp)
.View more the latest threads:
- Cuộc chuyển giao quyền lực nhà nước phong...
- Truyền thuyết Đức Thánh Chèm
- Những lần Dân tộc ta đứng trước thử thách bị...
- Nét đặc trưng trong văn hóa của người Việt cổ
- Lịch sử thời đại Vua Hùng Bách Việt Văn Lang...
- Lòng yêu nước của vua Duy Tân
- Bát Cổ - Sơ đồ và lộ trình đi
- Bát Cổ - Hành trình tự khám phá Bát Cổ
- Tìm hiểu về nguồn cội Tộc Việt
- Lịch sử Dòng Tộc Họ Đỗ
-
13 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới ThanhTrung90
bần tăng (29-12-2023),haixuyentb (08-02-2024),Hanhthong (29-12-2023),hoanlinh (29-12-2023),manhtuongngo (08-02-2024),NguyetQuangTu (29-12-2023),Phương Nam (02-01-2024),Thanh Quang (29-12-2023),THANHTINH (09-02-2024),thiện tai (29-12-2023),Trần Kim Cương (16-02-2024),TuMinh (30-12-2023),ĐINHQUANG HIỆP (29-12-2023)
-
29-12-2023, 10:40 #2
Nhập môn
- Ngày tham gia
- Feb 2012
- Bài viết
- 126
- Cảm ơn!
- 1,228
- Thanked 2,436 Times in 124 Posts
.
2. Thử thách sống còn của Dân tộc trước giặc Minh xâm lược:
Người Trung Hoa có sự tự hào rất lớn về lịch sử của họ. Đó là một dòng chảy lịch sử rất dài được ghi chép, lưu trữ lại từ rất sớm (hàng ngàn năm trước Công nguyên). Cùng với rất nhiều tình tiết lịch sử thì các giáo lý, văn thơ, … cũng đã được truyền lại xuyên suốt nhiều Thiên nhiên kỷ giúp cho mỗi thời kỳ lại tiếp tục kế thừa, hoàn thiện, sáng tạo thêm cho nền văn hóa chung ngày càng phát triển.
Cũng bởi vậy, mặc dù có rất nhiều biến động thời cuộc và chiến tranh xảy ra suốt chiều dài lịch sử, nền văn minh Trung Hoa đã tích lũy được một bề dày đồ sộ thuộc rất nhiều lĩnh vực, tạo nên một bản sắc rực rỡ.
Lịch sử nước Việt cũng có một dòng chảy rất dài với nhiều biến động, nhiều thành tựu riêng. Tuy nhiên, có một thực tế là những thông tin lưu truyền lại từ thời Hùng Vương, thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc, tới thời kỳ Độc lập sau đó (nhà Đinh, tiền Lê, nhà Lý, Trần) lại bị che mờ đi rất nhiều vì yếu tố thời gian, vì chữ viết được người Việt sử dụng muộn hơn Trung Hoa, … và đặc biệt là do sự phá hủy có ý đồ của quân xâm lược ngoại bang.
Đầu thế kỷ 15, nhân lúc nội bộ Đại Việt đang rối ren, quân Minh đã xâm phạm bờ cõi với danh nghĩa ban đầu là diệt nhà Hồ, khôi phục nhà Trần. Tuy nhiên, chính quyền cai trị của nhà Minh đã có mục đích đồng hóa và sát nhập:
“Minh Thành Tổ Chu Đệ đã ra lệnh cho các tướng: “Khi tiến quân vào An Nam thì chỉ trừ những bản kinh và sách về Đạo, Thích không hủy. Còn tất cả những bản in sách, các giấy tờ cho đến sách học trẻ con như loại “thượng, đại, nhân, khẩu, ất, kỷ” thì nhất thiết một mảnh giấy, một chữ đều phải thiêu hủy hết. Trong nước ấy, chỉ có những bia do Trung Quốc dựng lên ngày trước thì để lại. Còn những bia do An Nam lập ra thì phải phá cho hết, một chữ cũng không được để lại”.”
Có thể thấy, trong lần đô hộ này, quân xâm lược đã thực hiện việc xóa sổ văn hóa có bài bản tới tận gốc rễ. Bên cạnh việc duy trì lực lượng quân đội đông đảo do các tướng giỏi phụ trách, nhà Minh chiêu nạp thêm một đạo quân người Việt (ngụy quân) để phục vụ, quy hoạch lại hệ thống làng xã để dễ kiểm soát. Họ thi hành chính sách bắt những người thợ, những trí thức, những người có tài về chính quốc phục vụ. Họ kiếm những trẻ em có tố chất để đưa sang Trung Quốc dạy dỗ rồi chia ra hoặc giữ lại để làm nô bộc cho cung cấm, phủ quan nhà Minh, hoặc gửi về An Nam là ngụy quan.
Cùng với đó là những chính sách bóc lột tàn bạo với đủ loại thuế, cưỡng ép phục dịch, thẳng tay đàn áp mà lịch sử đã ghi lại. Mục đích của những hành động này không chỉ để vơ vét của cải, mà còn làm kiệt quệ nguồn nhân lực, vật lực để Dân tộc Việt không thể gượng dậy được nữa. Trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo, Cụ Ức Trai đã phải viết rằng:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”
May mắn thay, giai đoạn đô hộ với mục đích đồng hóa này đã kết thúc với chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đất nước đã giành lại độc lập sau 20 năm bị đô hộ. Mặt khác, sự tàn phá của cuộc đồng hóa lần này cũng rất lớn: rất nhiều văn bản, tài liệu, thông tin về thời kỳ trước đó đã bị hủy hoại, nhiều thứ đã không còn có thể khôi phục, chỉ một số có thể tìm lại nhưng không được trọn vẹn:
Ví dụ bộ sử thời Trần có tên “Đại Việt sử ký” do Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn cũng bị hủy, bị lấy đi (may mắn là tới thời Lê, sử gia Ngô Sĩ Liên và các vị khác đã thu thập lại là dựa trên đó viết bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” – tư liệu quý giá bậc nhất về lịch sử Việt từ thời Hồng Bàng tới thời hậu Lê).
Hay như bộ “Binh thư yếu lược” do chính Hưng Đạo Đại Vương biên soạn cũng đã bị mang về Trung Quốc và hủy hầu hết bản sao. Cuốn Binh thư yếu lược ngày nay chúng ta được đọc là do Đào Duy Từ thu thập lại (không hoàn chỉnh).
Và còn nhiều những nuối tiếc nữa từ sự mất mát trong giai đoạn quân Minh xâm lược gây ra cho Dân tộc ta. Qua những trang sử, chúng ta có thể thấy Dân tộc Việt đã từng đứng trước những thách thức sinh tồn to lớn. Từ đó cho ta ý thức hơn về việc học lịch sử - một việc không chỉ là ghi nhớ những sự kiện, mà còn là nhớ nguồn gốc, bản sắc theo đúng tinh thần “Dân ta phải biết sử ta”.
(còn tiếp)
-
7 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới ThanhTrung90
bần tăng (30-12-2023),haixuyentb (08-02-2024),NguyetQuangTu (30-12-2023),THANHTINH (09-02-2024),thiện tai (08-02-2024),Trần Kim Cương (16-02-2024),TuMinh (30-12-2023)
-
07-02-2024, 22:31 #3
Nhập môn
- Ngày tham gia
- Feb 2012
- Bài viết
- 126
- Cảm ơn!
- 1,228
- Thanked 2,436 Times in 124 Posts
.
3. Thử thách trước cuộc đồng hóa của thực dân Pháp:
Giai đoạn Pháp thuộc là một thời kỳ dân tộc Việt đứng trước một thử thách đặc biệt phức tạp. Trong suốt hàng ngàn năm trước đó, người Việt đã không ngừng phải thích ứng và vượt qua những cuộc xâm lăng, đồng hóa của phương Bắc. Giai đoạn cuối TK19, đầu TK20, dân tộc ta lại đứng trước một thách thức hoàn toàn mới mẻ và khác biệt so với những thời kỳ trước đó: cuộc xâm lược với sự chênh lệch quá lớn về KHKT và văn hóa của nền văn minh phương Tây.
Sau khi đã thực hiện từng bước việc chiếm đóng vũ trang trên đất nước ta, chính quyền Pháp đã cử sang những trí thức xuất sắc sang làm toàn quyền Đông Dương như Paul Doumer, Albert Sarraut, … Họ đã áp dụng những tri thức xã hội học, kinh tế học, giáo dục học … của phương Tây với thuộc địa An Nam, song không nhằm mục đích “khai hóa văn minh”, mà nhằm kiểm soát dân tộc ta một cách bài bản hơn.
Cách thức kiểm soát trên được thể hiện phần nào với con số thống kê: “ “Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số 1.000 làng đó lại chỉ vẻn vẹn 10 trường học...”
Thực dân Pháp đã sử dụng phương pháp phân hóa rất khoa học: với những người trong tầng lớp thấp chiếm phần lớn trong xã hội như bần nông, phu đồn điền, … phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh hàng ngày, chịu nhiều loại thuế, … đồng thời cám dỗ tới từ những tệ nạn như rượu, thuốc phiện, cờ bạc, … nhằm mục đích bòn rút nốt của cải vật chất trong xã hội thuộc địa và làm suy nhược sức phản kháng của dân tộc Việt.
Những người xuất thân từ tầng lớp có điều kiện hơn thì được đào tạo trong một hệ thống giáo dục thuộc địa. Tiếng Pháp được đưa vào giảng dạy bắt buộc. Càng lên lớp cao thì các môn tiếng Pháp và văn hóa Pháp càng có trọng số lớn. Mục đích của nền giáo dục này là để tạo ra những người phục vụ trung thành cho chính quyền Đông Dương.
Nhìn sang các nước cựu thuộc địa trước đây như Ấn Độ, Nam Phi, Philippines,… (từng thuộc Anh); Argentina, Chile, Colombia, … (từng thuộc Tây Ban Nha); Brasil, Angola, Mozambique,… (từng thuộc Bồ Đào Nha), các ngôn ngữ Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã trở thành ngôn ngữ chính thức hay thậm chí là ngôn ngữ bản địa của đa số người dân, ta mới thấy sức ảnh hưởng ghê gớm của hệ thống giáo dục thuộc địa.
Trước thử thách to lớn này, Dân tộc Việt một lần nữa đã thể hiện sức sống, khả năng thích nghi và sự kiên cường. Những cuộc kháng chiến chống thực dân nổ ra liên tục ngay từ những ngày đầu tiên quân Pháp xâm chiếm đất nước. Dù bị giặc đàn áp mạnh mẽ, song lớp lớp thế hệ người Việt vẫn không ngừng khẳng khái đứng lên mãnh liệt trong suốt nhiều thập kỷ.
Đồng thời, những người con của tộc Việt đã nhận ra sự yếm thế của đất nước xuất phát từ sự chênh lệch quá lớn của KHKT, mức độ phát triển so với Thế giới. Họ đã chủ động tiếp thu tri thức của nhân loại, dần hoàn thiện và vận dụng vào quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc. Với tài năng của mình, họ hoàn toàn có thể nhận được nhung lụa của chính quyền bảo hộ, tuy nhiên họ đã lựa chọn con đường chông gai, hiểm nguy nhưng là con đường của lẽ phải.
Những người được hấp thụ nền giáo dục phương Tây như Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp, thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Tôn Thất Tùng, ông Tạ Quang Bửu, ông Trần Đại Nghĩa, …. đã dùng chính những tinh hoa tri thức của Thế giới để góp phần giành lại độc lập cho dân tộc.
Thế kỷ 20 là giai đoạn gian nan nhưng cũng đánh dấu sự vực dậy mạnh mẽ của nước Việt. Có thể nói qua nhiều ngàn năm lịch sử, những hậu duệ Lạc Hồng đã trải qua không ít gian truân với những hiểm nguy phức tạp. Song, với sức sinh tồn mãnh liệt, ý thức hệ mạnh mẽ về nguồn cội cùng khả năng thích ứng với những thử thách của thời cuộc, dân tộc Việt vẫn tiếp tục giữ vững và phát triển những bản sắc của Con Rồng Cháu Tiên.
.
-
8 Thành Viên Gửi Lời Cảm Ơn Tới ThanhTrung90
bần tăng (10-02-2024),haixuyentb (08-02-2024),lê chí công (29-02-2024),THANHTINH (09-02-2024),thiện tai (08-02-2024),Trần Kim Cương (16-02-2024),tuluyenthantam (13-02-2024),TuMinh (15-02-2024)