-
Giai thoại đi sứ Mạc Đĩnh Chi
Tại cửa ải
Thử thách văn chương đầu tiên là do trời mưa nên Sứ bộ đến cửa ải Pha Lũy (nay là ải Nam Quan) bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng ông, nên thử tài bằng câu đối:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
Nghĩa là: Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Ông đã đáp lại:
Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
Nghĩa là: Ra câu đối trước thì dễ, đối câu đối mới khó, xin tiên sinh đối trước.
Quan giữ ải phục tài, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ và tiếp đãi rất long trọng.
Buổi tiếp kiến đầu tiên
Khi đến Đại Đô (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc), thấy Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, nên người Nguyên tỏ ý khinh thường. Trong buổi tiếp kiến đầu tiên người triều Nguyên đã ra câu đối:
Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố
Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng. Hàm ý là đại quốc đủ sức đốt cháy nước nhỏ.
Mạc Đĩnh Chi đã đối lại:
Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời. Hàm ý là nước nhỏ cũng có thể chống lại nước lớn trong hoàn cảnh thích hợp.
Vế đối này của Mạc Đĩnh Chi còn lấy điển tích Hậu Nghệ xạ nhật, hay Hậu Nghệ bắn rụng chín mặt trời làm gốc. Kim Ô, hay Quạ Mặt Trời, ban ngày bay lên tai hoạ nhân gian. Hậu Nghệ bèn lấy cung bắn rụng chín con, chỉ chừa lại một con duy nhất để chiếu sáng nhân gian.
-
Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (1281-1328) sinh ngày 29/01 (âm lịch) năm Thiệu Bảo thứ 3 (tức 19/02/1281). Ông là con trai thứ của Trần Nhân Tông, em của Thái tử Trần Thuyên, người sau là Trần Anh Tông. Ông là một nhân vật chính trị, quan viên và là hoàng thân của triều đại nhà Trần. Ông được đánh giá là một trong những nhân vật chính trị kiệt xuất của nhà Trần, trở thành trụ cột chính của triều đại này khi ông vừa là chú vừa là cha vợ của Trần Minh Tông. Cái chết của ông liên quan đến vấn đề kế vị, khi ông phản đối ý định của Minh Tông lúc muốn lập Trần Hiến Tông, và điều này dẫn đến việc ông bị kết tội phản nghịch và bị bỏ đói đến chết. Việc Ông qua đời để lại rất nhiều chỉ trích của các sử gia đối với Trần Minh Tông. Sử sách không ghi chép chính xác mẹ của ông là ai, có lẽ là chính thê của Nhân Tông, Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Hậu, hoặc em gái bà là Tuyên Từ Hoàng Hậu, cả hai đều là con gái Trần Hưng Đạo. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng ông rất được Nhân Tông và Anh Tông yêu mến.
Năm Trùng Hưng thứ 9, Quý tị (1293), Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Thuyên, sử gọi Trần Anh Tông. Mùa thu năm đó, khi mới 13 tuổi, ông đã được phong là Huệ Vũ đại vương .
Năm Hưng Long thứ 10 (1302), ông được phong chức Nhập nội Bình chương, tương đương Tể Tướng.
Năm Hưng Long thứ 20 (1312), Chiêm Thành lấn chiếm biên giới phía nam Đại Việt. Anh Tông ngự giá thân chinh, đến Phủ Lâm Bình, chia quân làm ba đường, sai Trần Quốc Chẩn theo đường núi, Trần Khánh Dư theo đường biển, đích thân vua tự dẫn sáu quân theo đường bộ; thủy bộ, cùng tiến đánh. Một lần quân Chiêm định tập kích ngự doanh, quân Trần Quốc Chẩn kịp thời cứu viện, phối hợp với Đoàn Nhữ Hài bao vây, bức hàng quân Chiêm Thành thắng lợi, quân Trần không tốn một mũi tên.
Năm Đại Khánh thứ 5 (1318,Trần Minh Tông sai ông cùng tướng quân Phạm Ngũ Lão tiếp tục đi đánh dẹp quân Chiêm Thành thu được thắng lợi lớn, giữ yên bờ cõi quốc gia.
Năm Đại Khánh thứ 7 (1320), mùa đông, Trần Anh Tông băng hà. Trước đây, khi Thái thượng hoàng Trần Anh Tông không khỏe, vua ngày đêm ở luôn ngoài cửa phòng ngủ của Thượng hoàng, mỗi khi vào thăm thì cùng đi với Quốc Chẩn. Vì Anh Tông tin cậy Quốc Chẩn hơn cả, định đem vua gửi gắm Quốc Chẩn, cho nên không cho vào thăm một mình, mà phải cùng đi với Quốc Chẩn, cốt để cho tình nghĩa vua tôi được khăng khít và không còn nghi ngại gì nữa.
Năm Đại Khánh thứ 10 (1323), con gái ông là Huy Thánh công chúa thành hôn với Trần Minh Tông, tức Lê Thánh Hoàng Hậu. Do có nhiều công lao với triều đình, hơn nữa lại là cha vợ của Minh Tông, vào năm Khai Thái thứ nhất (1324), Trần Quốc Chẩn được vua Trần phong chức: Nhập nội Quốc phụ Thượng tể – chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ Thượng Thư.
Sử cũ còn ghi nhận, Trần Quốc Chẩn không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận mà ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục.
Năm Khai Thái thứ 5 (1328), mùa xuân tháng 03, Quốc phụ thượng tể Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn bị giết.
Trần Minh Tông giữ ngôi được 15 năm (từ năm 1314 đến năm 1329) tuổi đã cao mà chưa lập được Thái Tử. Huệ Vũ vương Quốc Chẩn có ý đợi Lệ Thánh hoàng hậu sinh con trai thì mới lập. Lúc bấy giờ, Cương Đông Văn Hiến hầu (không rõ tên) là con của Tá thánh Thái sư Trần Nhật Duật muốn đánh đổ Hoàng hậu để lập Thái tử Vượng (sau là Trần Hiến Tông) mới đem của đút cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Nhạc 100 lạng vàng bảo Trần Nhạc vu cáo cho Quốc Chẩn có âm mưu làm phản. Hẳn là lúc bấy giờ Lệ Thánh Hoàng hậu đang mang thai nên phe Cương Đông Văn Hiến hầu và Trần Khắc Chung, đứng đằng sau là Lê Nguyên phi mẹ Hoàng tử Vượng mới lo lắng ra tay trước như vậy (rốt cuộc năm đó Hoàng hậu chỉ sinh ra một công chúa, tức Thiên Ninh Công chúa Trần Thị Ngọc Tha)
Trần Minh Tông tin cho là thật, liền ra lệnh bắt giam ngay Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc ở kinh sư rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến Hầu, lại cùng với mẹ thái tử Vượng Anh Tư nguyên phi Lê thị, đều là người Giáp Sơn(Kinh Môn) và đã từng làm thầy dạy Thái tử Vượng, liền trả lời: "Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Minh Tông truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực.