Phân tích bài thơ "Về Côn Đảo"
Côn Đảo là một địa danh gắn liền với những nỗi ám ảnh về một địa ngục trần gian trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của đất nước chúng ta. Giờ đây Côn Đảo đã là địa danh du lịch. Lúc nào những kỷ vật, những hình ảnh của nó vẫn làm bồi hồi, xúc động không biết bao người khi ghé lại nơi đây. Chúng ta thử khám phá vài nét với Côn Đảo qua bài thơ “ Về Côn Đảo” của Thiền sư Nhật Nguyệt Tuệ Tâm.
Giờ Côn Đảo đẹp lắm! Một người bạn của tôi nói vậy. Cái đẹp của một vùng đất lịch sử của một đất nước hòa bình. Tuy vậy bất kỳ du khách nào đến đây cũng đều biết rằng, chính nơi đây đã là nơi giam giữ những tù nhân yêu nước. Nơi mà tất cả những gì gọi là cực hình tàn khốc nhất đối với con người đã được sử dụng để làm tiêu tan ý chí yêu nước, quật cường, lòng tự hào dân tộc, yêu tự do, yêu hòa bình của những con người bất khuất. Nhưng tất cả những điều vô nhân tính đó đều đã bị thất bại hoàn toàn bởi tấm lòng kiên trung của những người con yêu nước nơi đây.
Nằm trong hệ thống giam giữ nơi đây và là đỉnh điểm của sự tàn độc trong chế độ cai tù chính là chuồng cọp. Nơi biệt giam những người tù mà không điều gì có thể làm lung lay ý chí của họ. Bước vào chuồng cọp những hình ảnh, những dấu ấn năng lượng của quá khứ đã hiển hiện trong tâm trí, khiến tác giả thật sự bàng hoàng, đau xót:
Tôi bước vào chuồng cọp
Lòng quặn thắt. Rưng rưng…
Nước mắt chảy vào tim
Máu trào ra từ đó
Hình ảnh của một cháu nhỏ trần truồng bị dốc ngược, hình ảnh người tù đang chết dần từ chân lên đầu , hình ảnh của người tù bị tháo mất cả 10 ngón tay. Rồi hình ảnh của một nữ tù tự rạch bụng mình và giật khúc ruột của mình ra để vào mặt tên đại tá… Tất cả những hình ảnh đó được tái hiện ngay trước mắt Thiền sư. Những con người dũng cảm ấy tuy thân xác thì không còn nhưng những dấu ấn năng lượng họ để lại, sẽ còn mãi ở nơi đây như minh chứng cho một thời oanh liệt bi hùng. Cảm thông, xót thương trước điều đó, nhưng dường như những lời nói không thể đủ diễn tả cho những nỗi oan khiên mà những người con kiên trung của đất nước đã phải chịu đựng, nhưng thiền sư đã cảm nhận được điều ấy :
Không thể gì diễn tả
Thấu hết nỗi oan khiên
Của những người trung kiên
Đã quên mình vì nước.
Nghĩa trang Côn Đảo đã được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ như một công viên vĩnh hằng dành cho các chiến sỹ cách mạng đã hy sinh. Mặc dù vậy, khi lặng bước bên những hàng dương trong nghĩa trang, với con mắt của một người làm tâm linh thì tác giả mới thấy được những điều mà người thường khó thấy:
Bên hàng dương lặng bước
Những nấm mộ lặng im
Dưới đó có trái tim
Vì sao đang thổn thức
Một câu hỏi được đặt ra để cho một số người nào đó phải suy ngẫm.
Tôi tự hỏi: không biết
Có ai đã lãng quên
Hai mươi nghìn tù nhân
Vùi thây nơi côn đảo
Những hình ảnh của quá khứ và hiện tại được hiện ra. Một Côn Đảo xưa bi tráng đau thương. Trong niềm xót thương vô hạn với những linh hồn bất khuất, Thiền sư đã làm một việc mà ít người làm được cho những người nằm lại nơi đây, những hồn thiêng sông núi:
Tôi ngàn lần xin lỗi
Đứng lặng bên hàng dương
Năng lượng từ trong tim
Phát trùm lên ngàn mộ
Tôi về đây xin chữa
Làm lành mọi vết thương
Cho tất cả hồn thiêng
Chết vì dân vì nước
Mọi người khi được chứng kiến hoặc được nghe kể lại những tình cảnh đau thương, thường hay phát tâm chia sẻ cảm thông. Nhưng với Thiền sư NNTT thì không chỉ dừng lại ở đó mà với khả năng của mình, không chỉ có lời xin lỗi mà là những hành động cụ thể. Thiền sư đã phát năng lượng từ trái tim đồng cảm, tưởng nhớ, biết ơn để chữa lành những vết thương cho những linh hồn đã hy sinh vì dân, vì nước. Điều này nghe thì có vẻ hơi xa vời và khó hiểu nhưng nó hoàn toàn nhất quán với quan điểm tu đạo mà Thầy đã đặt ra đó là: Tu đạo phải gắn liền với hành đạo. Tu đạo không chỉ tu cho riêng mình mà cần phải hành đạo-mang cái mình tu được, học được ra để giúp đỡ mọi người. Đây chính là hạnh Bồ Tát mà Thầy NNTT luôn luôn nhắc nhở các học trò phải thực hiện cho tốt. Có những điều mà người thường cho là không thể, nhưng biết đâu đối với những người tu luyện lại là có thể.
Những hồn thiêng sau khi nhận năng lượng từ Người, những vết thương đã được chữa lành: Người tù mất ngón tay thì những ngón tay đó đã được mọc lại, người bị vặn gẫy chân thì đã nở nụ cười vì chân không còn lủng lẳng đau đớn nữa. Người tù từng mổ bụng rứt ruột ném vào mặt tên đại tá cũng được khâu lại vẹn nguyên, chị mỉm cười đứng lên và vẫn thể hiện đầy đủ đặc tính của người phụ nữ Việt Nam “vẫn dịu hiền như cũ”. Cháu nhỏ đầu tím ngắt phình to bỗng hóa thành một thiên thần rất kháu, cháu nhoẻn nụ cười…Và còn rất nhiều những linh hồn khác khi được nhận năng lượng chữa lành của Người đã không phải mang trên mình những vết thương khi xưa. Tất cả những vết thương thể xác đã được làm lành và quan trọng hơn là những vết thương trong tâm hồn họ cũng được giải quyết trọn vẹn, những hồn thiêng của sông núi chắc chắn sẽ vui khi biết rằng vẫn có rất nhiều người nhớ về họ và có người đã đến tận nơi để giúp họ.
Và một người đặc biệt, trong những người đặc biệt không thể quên, người thiếu nữ tuổi 16 đã nằm lại nơi đây, chị Võ Thị Sáu, cũng nhận được từ Thầy sự quan tâm đặc biệt:
Trong ký ức bao người
Lê ki ma vẫn nở
Bài thơ có nhiều điểm đặc biệt kỳ lạ mang màu sắc huyền bí, kỳ ảo như việc giao tiếp với các linh hồn, rồi các vong hồn được chữa lành bệnh, những bộ phận cơ thể được phục hồi… có thể phần nào cũng gây khó hiểu với nhiều người, bản thân tôi cũng không thể nói rõ mọi lẽ được. Riêng phần tôi khi đọc bài thơ, tôi rất ấn tượng với hình ảnh của Thầy đứng trong nghĩa trang Hàng Dương - nơi yên nghỉ của hàng ngàn chiến sĩ yêu nước và phát năng lượng chữa lành cho những linh hồn đã khuất. Tôi hình dung ra một nghĩa trang rợp bóng dương lặng lẽ, lao xao theo những cơn gió biển chợt bừng sáng cả một góc trời khi năng lượng của Thầy phát xuống, những vong hồn ngạc nhiên rồi ôm chầm lấy nhau trong niềm vui khi họ không còn thương tật trên người nữa. Những người chiến sĩ năm xưa đã từng sống chết cùng nhau, chịu bao khổ cực tại nơi này và hôm nay họ lại được cùng nhau chia sẻ niềm vui mới ở cõi vĩnh hằng. Thật là xúc động!
Bài thơ với lời thơ dung dị, chân tình, mang nhiều màu sắc tâm linh, đã ghi lại những tâm tư, hành động của Thiền sư NNTT trong chuyến đi thăm Côn Đảo. Qua bài thơ, người đọc phần nào thấy được tâm đức cũng như khả năng của Người. Bài thơ khép lại kéo theo dư âm của một buổi chia tay ngậm ngùi và lời hẹn gặp lại vang vọng như lời nhắn nhủ với những con người bất khuất, họ sẽ không bị lãng quên.