Là người Việt Nam, đặc biệt là lớn lên ở vùng nông thôn nên hình ảnh cây cau, giàn trầu đã gắn liền với Vidieu từ tấm bé. Ngày ngày, vẫn nhìn thấy bà bổ cau, têm trầu; ông thì lấy mo cau làm quạt. Nhà nhà đều có hàng cau đu đưa trước sân nhà. Vẫn còn âm vang đâu đây câu thơ của nhà thơ Nguyễn Khuyến:
"Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ
Xin đôi câu đối để mừng ông."
Tàu lá cau gắn vào thân cau dùng để hứng những giọt nước mưa ngọt ngào, mát mẻ, trong lành góp phần cho cốc nước chè xanh thêm thơm ngon dâng lên Thầy. Thân cau chính là nơi lý tưởng dùng để gắn những giỏ lan đủ màu sắc. Hai cây cau cách nhau một khoảng cách vừa phải có thể mắc chiếc võng đu đưa nâng giấc ngủ cho Thầy mỗi ngày hè.
Hoa cau với vẻ đẹp thánh thiện và linh thiêng, khi hoa nở tỏa mùi hương thoang thoảng ngọt ngào đã mang nặng tình người từ bao đời nay.
Hoa cau được nở vào cuối xuân đầu mùa hạ, có hàng trăm cánh vươn dài, nối kết nhau thành những chùm hoa tuyệt. Hương vị thơm dịu ngọt ngào của hoa cau như muốn níu giữ chân ai ở lại. Hoa cau đặc biệt hơn các loài hoa khác ở chỗ hoa chỉ có nở chứ không có ngày tàn mà chỉ chờ đến ngày kết thành quả.
Với hoa cau khi vừa nở màu trắng trông tựa như ngà hay màu vàng nõn nà óng ả, sau đó theo thời gian sẽ được chuyển dần sang màu xanh đậm thành những quả cau lớn dần cho đến tận mùa đông thì có thể hái quả.
Với người Việt Nam, trầu cau vừa là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo.
Tục ngữ Việt có câu:
Miếng trầu là đầu câu chuyện
Với thôn dân Việt Nam, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám bổ tư , vỏ chay rể quạch luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Miếng trầu làm người với người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Và với các nam nữ thanh niên xưa thì miếng trầu là cội nguồn để bắt đầu tình yêu, bắt đầu câu hát, để vào với hội làng hội nước.
Khắp xứ sở Việt Nam đâu đâu cũng thấy hàng cau phía trước nhà, bên bể nước mưa và
đâu đâu cũng thấy giàn trầu nơi mỗi căn nhà vùng thôn dã. Cây cau thẳng, dây trầu mềm luôn là biểu hiện của sự thái bình.,
Trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và lâu đời vì sách xưa ghi: "Ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm".
Trầu dùng tiếp khách hàng ngày, như bát chè xanh, như điếu thuốc lào. Xuân đến, Tết về, trầu cau còn là quà tặng.
Trầu làm sính lễ trong đám hỏi, trầu thay cho thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui buồn của làng quê.
Ngoài ra, trầu cau còn là đồ cúng lễ, ngày giỗ để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của ông bà cha mẹ đã khuất bóng
Trước - nay, trầu cau được xem như một hiện tượng văn hóa truyền tải những triết lý nhân sinh. Về lịch sử, truyện Trầu cau là một dấu mốc đánh dấu sự thay đổi từ thời kỳ mẫu hệ sang phụ hệ, chấm dứt chuyện hôn nhân sóng ba, một vợ hai chồng (Sự tích ông đồ rau) để đi đến hôn nhân một vợ một chồng. Về đạo lý, sự chung thủy thể hiện nguyên lý Nguyên nhất – Cây vũ trụ. Cây cau là cây có trục thẳng đứng tập hợp các đốt nối tiếp thể hiện sự phát triển tiếp nối, vĩnh cửu. Nhiều đốt trong trục thẳng đứng cũng thể hiện cuộc sống có cái nguyên nhất nhưng cũng có sự phân đoạn. Đó là triết lý Việt tạo ra một lẽ sống, một nhân sinh quan, một bước đi trong cái mênh mông của thời gian, của cuộc sống.
Trầu cau cũng thể hiện quan niệm về triết lý luân hồi, sự xoay vần của tạo hóa, sự biến chuyển, xê dịch từ trạng thái này sang trạng thái khác của sự sống. Ở câu chuyện Tấm Cám, vòng tròn luân hồi và luật nhân quả dù chỉ là một truyền thuyết văn học nhưng lại hướng tới cái vĩnh hằng, sự bất diệt, mạnh mẽ đến mức nàng Tấm nhờ có miếng trầu mà được đoàn tụ với chồng. Chính những điều đó đã khiến cho tục ăn trầu của dân cư Việt thăng hoa, trở thành một mỹ tục mang tính đặc thù của một nền văn minh nông nghiệp.
Tục ăn trầu còn tiềm ẩn một triết lý về sự hòa hợp Âm – Dương. Cây cau vốn cao, thẳng đứng là biểu tượng của sự hướng dương, vôi là đá, hình phẳng là biểu tượng của âm. Miếng trầu có cái tươi ngọt từ hạt cau, cái cay của lá trầu, cái nồng nàn của vôi, cái bùi, chát của rễ…tất cả tạo nên một chất kích thích làm cho thơm miệng, đỏ môi và khuôn mặt người ăn trầu bừng bừng, hơi la đà, hưng phấn như một chút men rượu. Ăn trầu có nhai mà không nuốt, nó không thuộc loại ăn, không thuộc loại uống, cũng không thuộc loại hút, nó thể hiện một sự linh hoạt hiếm thấy trong ẩm thực và đặc biệt hơn, trầu cau đã trở thành một biểu tượng văn hóa, chuyển tải nhiều thông điệp của đời sống tâm linh.
Trong văn hóa phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, hòa hợp Âm- Dương là một hướng tới của sự phát triển bền vững. Vì lẽ đó, ở không gian hoàn thiện của một ngôi nhà tại các làng quê Việt Nam, phía trước sân nhà bao giờ cũng là hàng cau và giàn trầu (trước cau, sau chuối). Trầu cau đứng đó mang bao ý nghĩa tâm linh, minh chứng cho một gia đình viên mãn và vững bền.
Vào những thế kỷ trước, khi người Trung Quốc còn đô hộ nước ta, người Việt đã từng lấy tục để tóc ngắn nhuộm răng đen và ăn trầu làm tiêu chí để phân biệt với người Trung Quốc. Ăn trầu với răng đen đã là một nét văn hóa gắn người Việt với nền văn minh Nam Á và Nam Đảo mà hơn một nghìn năm Bắc thuộc vẫn không thể xóa bỏ nổi. Ấy là vì, một cư dân, một dân tộc qua hàng nghìn năm đã “điều chế” được một hệ thống ứng xử vô cùng linh hoạt, lịch sự, sâu sắc và thiêng liêng qua triết lý trầu cau, qua tâm linh gửi gắm ở trầu cau.
Từ quả cau lá trầu bình dị, khi được têm cánh phượng đã thổi vào đó ước mơ cho đất nước Việt Nam ta từ đất nước còn đang phát triển sẽ hóa rồng hóa phượng và trường tồn./.