Khổ hay không khổ là ở cách tư duy !
Trích dẫn:
Ngày mưa & ngày nắng
Có một bà lão nọ cả ngày luôn khóc than. Bà có hai cô con gái, cô lớn bán dù, còn cô bé bán mì.
Vào những ngày nắng, bà lo lắng “Ôi, trời nắng đẹp thế này chẳng ai mua dù cả, cửa hàng dù mà phải đóng cửa thì biết làm sao đây?’ Vì quá lo lắng khiến bà trở nên buồn rầu & khóc than.
Lúc trời mưa, bà lại khó vì lo lắng cho cô con gái nhỏ. Bà nghĩ: “Không có nắng làm sao phơi khô mỳ?”. Vậy là, bất kể trời mưa hay nắng, bà đều khóc lóc & quanh năm suốt tháng bà lão phải sống trong lo lắng buồn khổ. Hàng xóm xung quanh không thể an ủi bà và diễu cợt gọi bà là “bà lão hay than khóc”.
Một ngày nọ, bà gặp một nhà hiền triết. Ông tò mò muốn biết vì sao bà lão cứ khóc lóc suốt như vậy. Bà kể cho ông nghe câu chuyện của mình. Nhà hiền triết mỉm cười từ bi & nói, “Này bà lão, bà nên sống vui. Tôi sẽ chỉ cho bà cách để luôn có hạnh phúc & bà sẽ không phải đau khổ khóc than nữa”.
Bà lão nghe vậy rất đỗi mừng vui. Bà lập tức cầu xin lời khuyên mình nên làm gì. Ông trả lời: “Rất đơn giản thôi, bà chỉ cần thay đổi suy nghĩ của mình. Vào những ngày nắng thay vì nghĩ đến cô gái lớn không bán được dù, hãy nghĩ rằng cô gái nhỏ có thể phơi khô mì. Trời nắng như thế chắc chắn cô sẽ làm được rất nhiều mì & việc buôn bán hẳn rất thuận lợi. Ngược lại, khi trời mưa hãy nghĩ đến cửa hàng bán dù của cô gái lớn. Mọi người chắc chắn sẽ mua dù che mưa, và cửa hàng của cô sẽ làm ăn phát đạt”.
Bà già tỉnh ngộ và làm theo lời khuyên của vị hiền triết. Chỉ trong thời gian ngắn, bà không còn khóc lóc nữa mà ngày nào cũng mỉm cười vui vẻ. Từ đó người ta gọi bà là “bà lão hay cười”.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự rối loạn lo âu, buồn phiền, đau khổ nhưng mấu chốt của vấn đề vẫn nằm ở nội tâm chúng ta, ở những gì diễn ra bên trong chúng ta, mà cụ thể là ở nơi những suy nghĩ của chúng ta. Cách chúng ta nhìn nhận và hiểu vấn đề trong mối liên hệ với bản thân đóng vai trò quyết định tâm tình của ta đối với hoàn cảnh hay đối tượng đó. Đức Phật đã dạy rằng, tất cả những hạnh phúc hay khổ đau của chúng ta không phải đến từ người khác hay từ những thứ bên ngoài ta, mà là từ chính nội tâm của ta. Vì thế, điều quan trọng để giải tỏa sự lo âu, phiền muộn là làm sao chuyển đối cách tư duy và thay đổi ý nghĩ thường dẫn đến lo âu, buồn phiền, cảm thấy khổ, thất vọng, giận dỗi, cáu gắt, mệt mỏi,…
Hôm buổi học 17/7 vừa rồi Thầy cũng có kể chuyện về giai đoạn đầu tu luyện, khi Thầy NQT gặp PB có nói với cụ rằng: “Con thấy PB khổ quá !”, song PB trả lời lại là “Ta không thấy khổ”. Thầy NQT lại nói tiếp: “Nhưng con thấy PB khổ”, PB lại tiếp tục trả lời Thầy: “Ta vẫn không thấy khổ”. Tại thời điểm đó, Thầy thấy PB làm việc nhiều quá nên thương PB vất vả, thấy PB rất khổ. Giờ đây khi đã trải qua con đường tu luyện đầy khó khăn và thử thách, Thầy đã hiểu ra “khổ hay không khổ là ở nhận thức, lập trường của chính bản thân mình”. Buổi học ấy, Thầy NQT dạy cho chúng ta câu nói: “Khổ hay không khổ là ở cách tư duy.”
Chúng ta cũng đang từng bước đi theo con đường tu luyện của Thầy NQT, ngoài những lúc ngồi thiền định được khai tâm mở huệ thì chính những câu chuyện Thầy kể, những lời Thầy khuyên bảo chính là bài học để chúng ta học theo đó thay đổi cách tư duy bớt trần tục, giúp tâm ta được soi sáng hơn tạo điều kiện sống tốt, tu tập tốt. Sau buổi học 17/7, về nhà MC có sưu tầm, tìm hiểu thêm về chủ đề “Đau khổ” này, hôm nay xin chép ra đây để mọi người cùng tham khảo, làm tài liệu để chúng ta hiểu hơn về tâm tính của bản thân mình.
Đời sống bao gồm hai phương diện: ngoại cảnh và nội tâm. Có những tác động từ bên ngoài do những định luật khách quan về vật lý, xã hội, thời tiết, thiên nhiên, và cả siêu nhiên nữa. Có những tác động từ bên trong do những định luật khác về sinh lý, tâm lý, nghiệp báo v.v... Hai mặt trong và ngoài tương giao qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi sự tương giao này diễn ra trong mê mờ (vô minh) thì sẽ phát sinh vọng động (ái dục, hành) và tạo thành một chuỗi nhân quả liên quan (duyên khởi). Khi sự tương giao này diễn ra trong sáng suốt (tuệ) thì nội tâm được trầm tĩnh (định) và đời sống trở nên trong lành (giới).
Có hai loại người: Một là người có nội tâm phụ thuộc vào hoàn cảnh. Họ bị ngoại cảnh thu hút, cuốn trôi, ràng buộc và nhận chìm. Tất nhiên là họ phải gặt lấy những hậu quả bất an. Hai là người có nội tâm không lệ thuộc vào ngoại cảnh. Họ sống tự chủ, tự tại, an nhiên, thanh tịnh và dĩ nhiên hưởng được đời sống thanh thoát.
Sự tác động của ngoại cảnh gọi là duyên, chủ định của nội tâm gọi là nhân. Với người bị ngoại cảnh chi phối thì duyên lôi cuốn nhân. Với người không bị ngoại cảnh chi phối thì nhân thắng được duyên, tuy tùy duyên mà vẫn tự chủ. Tùy duyên có nghĩa là thuận theo hoàn cảnh. Như vậy phải là một người có nhân vững vàng (nội tâm ổn định, sáng suốt, tự chủ) thì mới có thể tùy duyên, bằng không sẽ bị duyên lôi cuốn, hoặc chạy theo duyên, nghĩa là nhắm mắt đưa chân, vui đâu chầu đó, thiện ác theo người, không phân tà chánh, đó là người phóng dật. Tùy duyên còn có một nghĩa khác là tùy lúc tùy nơi mà xử sự ứng tiếp, để có thể tùy sở trụ xứ thường an lạc. Khổng giáo cũng dạy “tùy cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an”. Vậy tuy tùy duyên mà vẫn bất biến mới là tùy duyên một cách đúng đắn. Hoàn cảnh có xấu, có tốt, có thuận, có nghịch, phải luôn luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì mới đủ sức bén nhạy để tùy cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an. Chỉ cần thiếu tỉnh thức (chánh niệm, tỉnh giác) là bị chìm vào biển trùng trùng duyên khởi ngay.
Xấu tốt, thuận nghịch không căn cứ ở vừa lòng hay không vừa lòng. Cái gì vừa lòng chưa hẳn đã tốt, cái gì trái ý chưa hẳn đã xấu. Thường người đời xử sự theo tư kiến, tư dục nên họ lấy thước đo vừa lòng và trái ý của họ để làm chuẩn, và như thế thì không thể tránh khỏi sự va chạm với những người xung quanh, vì tư kiến, tư dục của mỗi người mỗi khác.
Cùng một hoàn cảnh mà mỗi người xử sự mỗi khác, đưa đến hậu quả, dĩ nhiên cũng ở mỗi người khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì sự tương giao giữa nội tâm và ngoại cảnh diễn ra trong mê mờ (vô minh, không tỉnh thức) đã phát sinh những vọng động (ái dục) sai khác. Không thể điều chỉnh sự dị biệt, mâu thuẫn này giữa con người bằng cách thay đổi hoàn cảnh, vì nó chỉ là điều kiện phụ (duyên), mà phải thay đổi nội tâm (nhân). Điều chỉnh nội tâm không phải là ép buộc nó phải theo một khuôn mẫu nào mà ta đã chủ định. Vì như thế là vẫn còn theo tư kiến, tư dục, và chắc chắn vẫn tạo hố sâu cách biệt với người khác. Nội tâm sẽ biết cách tự xử thích ứng với hoàn cảnh khi ta để cho nó được tự do thư thái nhất, nghĩa là để cho nó được sáng suốt - định tĩnh - trong lành.
Trong Kinh Phật, những hiện tượng khổ đau được Đức Phật gọi là các Thiên sứ. Nó nhắc nhở chúng ta giác ngộ bốn sự thật: khổ, nhân sinh khổ, khổ diệt và con đường diệt khổ, nhờ vậy chúng ta mới biết thế nào là sống đúng chân lý. Vì vậy chúng ta hãy can đảm, đối diện với khổ đau để học ra nơi nó những giá trị đích thực.
1) Khổ đau cho chúng ta thấy bản chất của đời sống.
Khi một lý tưởng được sự mù quáng (vô minh) và lòng ham muốn (ái dục) dự phóng thành những hình ảnh hoa lệ của hạnh phúc, sung sướng, tự do, thỏa mãn... thì khổ đau sẽ là câu trả lời thẳng thắn và chân thực cho những lý tưởng lầm lạc đó. Có lẽ vì thế mà người đời nói nôm na là “ghét của nào trời trao của ấy” như một sự thật phũ phàng. Vậy qua khổ đau ta phải rút ra được bài học đâu là thực chất, đâu là lý tưởng, đâu là chân, đâu là vọng, đâu là sai, đâu là đúng.
- Sở dĩ người ta đau khổ là do đeo đuổi những thứ sai lầm.
- Khi xem hạnh phúc là điều kiện lý tưởng mà trong đó mọi việc đều như ý thì người ta sẽ cầu toàn. Nhưng cầu toàn giữa cuộc sống bất toàn thì chắc chắn sẽ chán chường thất vọng. Họ không biết răng chính sự bất toàn, bất như ý...mới thật sự có ý nghĩa sau sắc đánh thức họ đang ngủ say trong niềm vui, những thỏa mãn hời hợt giữa cuộc đời...
2) Khổ đau giúp chúng ta tăng sức chịu đựng bền bỉ (kham nhẫn).
Sức chịu đựng càng cao, sự giải thoát càng lớn. Giống như một người chưa bao giờ gánh nặng sẽ thấy một gánh 10 ký là cực hình, nhưng với người đã từng gánh nặng thì dầu 100 ký cũng vẫn nhẹ nhàng.
Sợ hãi khổ đau, mong cầu sung sướng đều là những cách lẩn tránh sự thật vì yếu đuối. Thực ra, trên đời không có gì khó, chỉ tại lòng không kham nhẫn. Vì vậy, chấp nhận đau khổ chính là nuôi lớn lòng kiên trì nhẫn nại. Có nhẫn nại mới làm được những việc khó làm, chịu được những việc khó kham mà tâm hồn vẫn an nhiên thanh thản.
- Càng chấp nhận khó khăn phức tạp thì tâm càng dễ dàng đơn giản, mà tâm càng dễ dàng đơn giản thì càng mau giác ngộ. Đó chính là cái tâm mà đức Phật dạy...Dù cuộc sống có là bùn nhơ thì quan trọng vẫn là đóa hoa tâm nào sẽ nở từ đống bùn tối tăm và nhầy nhụa ấy?...
- Đừơng khó đi nhưng không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông (Nguyễn Bá Tân).
- Thực ra, không có năng lực nào tốt hơn khả năng có thể kiên trì nhẫn nại trước mọi thử thách cam go đầy phiền não khổ đau trong cuộc sống hiện tại để học ra bài học giác ngộ của mình. Năng lực đó không xuất phát từ ý chí phấn đấu kiên cường của cái ta dũng mãnh mà từ một tâm hồn giản dị, bình thường, thầm lặng và vô ngã...
3) Đau khổ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân sâu xa của nó.
Nếu ta bình tĩnh sáng suốt để chiêm nghiệm thật kỹ thì ta sẽ thấy đau khổ không phải từ bên ngoài đến, không phải do người khác tạo ra. Điều kiện bên ngoài chỉ là duyên, còn nhân là ở trong ta. Như người bị trúng gió không phải chỉ thuần túy là do gió mà chính là do thể lực của anh ta đang yếu. Cũng vậy, khi có đau khổ chắc hẳn không phải do bên ngoài đem lại mà chính là bắt nguồn từ động lực bên trong.
Đức Phật dạy du sĩ ngoại đạo Kassapa: “Đau khổ không do ai tạo ra. Ở đâu có tham, sân, si ở đó có đau khổ. Ở đâu không có tham, sân, si ở đó không có đau khổ”. Đã biết đâu là nguyên nhân thì không còn đổ lỗi cho ai, cũng không than trời trách đất, mà chỉ lo chuyển hóa tận nguồn gốc nguyên nhân đau khổ ấy ngay chính trong ta mà thôi.
- Ai nghiêm trọng hóa những chuyện đơn thuần sẽ sống trong đau khổ. Ai có tình thương vô tư thì sẽ có tất cả. Nếu bạn không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho bạn. Tất cả do nội tâm bạn. Chỉ do bạn không chịu buông xuống. Khi tay bạn nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì bạn chỉ có mỗi thứ này. Nếu chịu buông xuống, bạn có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Người chấp khư khư quan niệm của mình, không chịu buông thì trí huệ chỉ đạt được ở một mức độ nhất định.
4) Đau khổ cho chúng ta thấy rõ con đường thoát khổ.
Như Đức Phật đã dạy ở trên, đau khổ bắt nguồn từ nguyên nhân nội tại. Nguyên nhân ấy chính là tham, sân (ái dục) và si (vô minh). Đau khổ chỉ là kết quả vì vậy thoát khổ không có nghĩa là trốn tránh hậu quả, mà chính là dập tắt nguyên nhân vô minh ái dục để chuyển hóa khổ đau ở tận nguồn.
Khi tỉnh thức sáng suốt thì không có vô minh, lúc trầm tĩnh ổn định thì không có ái dục. Không có vô minh và ái dục thì thân khẩu ý của chúng ta trở nên trong lành, thanh tịnh, vì vậy mọi ngọn gió khổ, vui, thành, bại, được, mất, hơn, thua ở đời không còn lay chuyển chúng ta được nữa.
- Bạn hãy luôn cảm ơn những ai tạo ra nghịch cảnh cho bạn. Người nào nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì tâm người đó sẽ không thể được thanh thản. Đừng nên có thái độ bất mãn người khác hoài. Bạn hãy quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính mình. Bạn phải luôn mở lòng khoan dung, lượng thứ cho người khác, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương bạn. Bạn phải buông bỏ để có được niềm vui đích thực. Cùng là một chiếc bình giống nhau, sao bạn lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm, sao bạn phải chứa đầy những não phiền làm chi?
- "Không có sự bình an trong cuộc đời mà chỉ có sự bình an trong tâm hồn con người. Đừng trách đời, trách người, cũng đừng tự trách mình, điều quan trọng là thấy ra được chính mình, dù trải qua bao nhiêu gian khó...Cuộc đời là bài toán khó mà đáp số không thể tìm thấy thấy trong đó, vì nó chỉ có trong lòng con người.."
- Chuyện gì đến sẽ đến
Chuyện gì đi sẽ đi
Tùy duyên mà ứng xử
Vô ngại, tâm xả ly...
5) Đau khổ giúp chúng ta sống theo Chân, Mỹ, Thiện.
Khi thấy rõ con đường thoát khổ, thì con đường ấy cũng chính là con đường chân hạnh phúc, con đường thể hiện tròn vẹn thể, tướng, dụng của đạo. Thể của đạo là chân, tướngcủa đạo là mỹ, dụng của đạo là thiện. Sống sáng suốt thể hiện được thể toàn chân của đạo. Sống định tĩnh thể hiện được tướng toàn mỹ của đạo. Sống trong lành thể hiện được dụng toàn thiện của đạo.
Vậy khi ta sáng suốt, định tĩnh, trong lành (tức giới, định, tuệ) chính là ta đang sống đạo, đang thể nghiệm con đường thoát khổ. Lúc chưa hiểu đạo ta có thể xem đau khổ như thù nghịch và ta có thể oán trách người khác đem lại đau khổ cho ta. Nhưng nay đã hiểu đạo, ta cần hãy sáng suốt, định tĩnh để nhận chân được sự thật của đời sống, sự thật trong chính bản thân ta và giữa cuộc đời. Mọi người đều đau khổ, mỗi người đều có mỗi hoàn cảnh riêng và đau khổ riêng. Nhưng khác nhau ở chỗ có nhận chân được chân lý của sự khổ hay không.
Không có bài học nào trong cuộc đời mà không trải qua khó khăn gian khổ. Bài học quá dễ dàng là bài học không có giá trị. Vậy từ nay chúng ta hãy bình tâm, nhẫn nại và sáng suốt để tinh tấn học bài học giác ngộ, giải thoát. Từ nay chúng ta hãy tự tin để sống bình thản giữa cuộc đời sóng gió.
- Thế giới vốn không thuộc về bạn, vì thế bạn không cần vứt bỏ. Cái cần vứt bỏ chính là tánh cố chấp. Vạn vật đều hữu dụng, nhưng không thuộc về ta. Khi không thể thay đổi được thế giới xung quanh, ta nên sửa đổi chính mình. Giáp mặt tất cả bằng tâm từ bi và trí huệ. Hạnh phúc chỉ được cảm nhận khi ai đó thực sự trải qua đau khổ. Đau khổ không chỉ là niềm đau, sự phiền muộn mà còn là cách nhìn mới mẻ hơn vào cuộc sống.
---
Nguồn sưu tầm:
* Hiểu về trái tim - TS Minh Niệm.
* Thư thầy trò - HT Viên Minh.
* 66 câu “thiền ngữ” - HT Thích Nhật Từ.
.