-
Đại Việt Hổ Tướng
Đại Việt Hổ Tướng
Có lẽ biết nhiều về các dũng tướng TQ mà không biết về những danh tướng Việt thì thật là thiếu xót, xin mạn phép tóm tắt về 5 trong số rất rất nhiều Vị tướng của Việt Nam mà khi so sánh có lẽ không thua kém bất cứ Danh tướng nào của TQ (nếu không muốn nói là hơn).
1. Hai Bà Trưng:
Hai Bà Trưng là tên gọi chung cho hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hai Bà thuộc dòng dõi của Lạc tướng huyện Mê Linh. Vào thời điểm này, Việt nam đang bị cai trị bởi nhà Hán. Đất nước còn phân chia thành các châu, quận và huyện. Tất cả bị đặt dưới quyền kiểm soát cay nghiệt của một vị quan Thái thú người Hán tên là Tô Định. Trưng Trắc thành hôn cùng Thi Sách, một Lạc tướng huyện Chu Diên. Cuộc hôn nhân còn hàm chứa việc liên kết giữa hai huyện, ngầm tạo sức mạnh để chờ thời cơ đánh đuổi nhà Hán. Tô Định nhìn ra điểm này nên đã sát hại Thi Sách và tưởng rằng sẽ dập tắt được ý tưởng vùng lên của người Việt. Nhưng vào năm 40 A.D. Trưng Trắc đã cùng em, Trưng Nhị khởi binh nổi dậy. Bất bình trước sự đô hộ dã man của nhà Hán cuộc khởi nghĩa giành độc lập của hai Bà đã được mau chóng hưởng ứng rộng rãi. Đặc biệt, hai Bà đã qui tụ một số đông nữ hào kiệt khắp nơi về tương trợ như các bà: Thánh Thiên, Bát Nàn, Lê Chân, Lê thị Hoa, Thiều Hoa, Phùng thị Chính. Khi xông trận, hai Bà cỡi voi đi đầu. Hình tượng ấy đã trở thành biểu tượng riêng khi kể về Hai Bà Trưng. Sau khi đánh bại Tô Định, hai Bà đã lập kinh đô tại Mê Linh và tự phong là Trưng Nữ Vương. Năm 43 A.D., nhà Hán cử Mã Viện sang đánh. Trước thế giặc mạnh, Hai Bà Trưng đã thất bại nhưng kiên quyết không đầu hàng. Hai Bà cùng nhảy xuống sông Hát tuẫn tiết vào ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch. Đối với người Việt nam, Hai Bà Trưng không chỉ là anh hùng dân tộc mà còn là biểu tượng cho người phụ nữ Việt nam kiêu hùng đúng như câu “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh!”.
Hai bà đã làm được điều mà hơn hai trăm năm trước đó và sau đó hàng trăm năm không một đấng trượng phu nào làm được.
2. Lý Thường Kiệt:
Lý Thường Kiệt (1019-1105) tên thật là Ngô Tuấn, thuộc dòng dõi của Ngô Vương Ngô Quyền. Ông theo theo phò ba đời vua triều Lý và đều được giữ trọng trách vì tài và trí hơn người. Tại Trung Quốc lúc bấy giờ nhà Tống đang muốn củng cố quyền lực nên thực hiện kế hoạch tấn công Đại Việt. Biết được âm mưu ấy, Lý Thường Kiệt cùng Tôn Đản đã chủ động đem 10 vạn quân sang đánh phá các châu Liêm, Khâm và Ung. Trước thất bại này, nhà Tống vẫn không từ bỏ mộng xâm lược, cho nên vào năm 1076, một lực lượng quân sự hùng hậu đã được đưa vào cuộc tấn công Đại Việt. Trước thế giặc mạnh, Lý Thường Kiệt đã lập phòng tuyến ở bờ nam sông Như Nguyệt. Tại nơi này đã diễn ra các trận giao tranh ác liệt và cuối cùng Lý Thường Kiệt một lần nữa đánh bại quân Tống. Chiến thắng Như Nguyệt được sử sách đánh giá là chiến thắng lớn nhất và cũng là trận chiến quyết liệt nhất kể từ sau trận Bạch Đằng năm 938 (do Ngô Vương Ngô Quyền lãnh đạo) Trong cuộc chiến này bài thơ tứ tuyệt ‘Nam Quốc Sơn Hà’ đã được dùng để khích lệ tinh thần binh sĩ Đại Việt.Bài thơ sau đó được xem là bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của Việt nam.
3. Quang Trung:
Nguyễn Huệ (chữ Hán: 阮惠; 1753 – 1792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế (光中皇帝), vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương (北平王), là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn (ở ngôi từ 1788 tới 1792) sau Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam với những trận đánh trong nội chiến và chống ngoại xâm chưa thất bại lần nào. Do có nhiều công lao, Nguyễn Huệ cũng được xem là người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía Bắc và Nguyễn ở phía Nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía Nam, của Đại Thanh (Trung Quốc) từ phía Bắc; đồng thời còn là người đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt.
Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột qua đời ở tuổi 40. Sau cái chết của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa của Nguyễn Huệ không thể tiếp tục những kế hoạch ông đã đề ra để cai trị nước Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn.
4. Ngô Quyền:
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權, 898 - 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương, là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Sinh năm 898 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng". Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Tĩnh Hải quân đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931. Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, ông được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.
5. Trần Quốc Toản:
Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản (chữ Hán: 陳國瓚, 1267-1285)[1] là một quý tộc nhà Trần, sống ở thời kỳ trị vì của vua Trần Nhân Tông, có công tham gia kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Tháng 10 năm 1282, các vua Trần mở hội nghị Bình Than để bàn kế chống quân Nguyên. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: Vua thấy Hoài Văn Hầu Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiện đều còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn kích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó Quốc Toản lui về, huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ sáu chữ :"Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua). Sau này, khi đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không dám đối địch.[2] Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước vương.
( Sưu tầm internet)