View Full Version : Bát Cổ
longtadinh
16-06-2019, 21:21
BÁT CỔ
TINH PHI CỔ THÁP
Cổ tháp tinh phi đứng giữa trời
Sao sa ngày ấy sáng muôn nơi
Tam vương nhất kính xuyên trần thế
Giải yếm buông trôi ấm vạn người
Thơ NNTT.
Tinh phi cổ tháp – Đền thờ bà Nguyễn Thị Duệ. Bà là vị nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam thời phong kiến(1574-1654).
2.TIỀU ẨN CỔ BÍCH
Cổ bích ông tiều ẩn nơi đây
Phượng hoàng đứng đó dưới trời mây
Sớ dâng thất trảm lòng chưa trọn
Vạn năm cùng với nước non này
Thơ NNTT.
Tiều Ẩn Cổ Bích - Đền thờ Thầy Chu Văn An, được mệnh danh là Thầy của những Người Thầy.Thầy Chu Văn An 06/10/1292- 26/11/1370.
3.DƯỢC VIÊN CỔ LĨNH
Cổ lĩnh dược viên một vườn cây
Ung dung dạo bước dưới trời mây
Vuốt dâu cười khểnh trông phương bắc
Ái quốc trung quân một kiếp này
Thơ NNTT.
Dược Viên Cổ Lĩnh là đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tướng Trần Hưng Đạo là một vị tướng có có công lao rất lớn thời nhà Trần. Các tài liệu ghi lại không rõ năm sinh của Ông, Ông mất năm 1300.
4.HUYỀN THIÊN CỔ TỰ
Cổ tự huyền thiên thông vẫn xanh
Chênh vênh sườn núi điểu nghe kinh
Lan xa dưới ngõ khua rừng vắng
Hay lòng tam tổ độ chúng sinh.
Thơ NNTT.
Huyền Thiên Cổ Tự - Ngôi chùa Tam tổ trúc lâm đã tu luyện ở đó thờ tam tổ trúc lâm. Tam tổ trúc lâm là 3 vị sư tổ của thiền phái trúc lâm yên tử. Tổ thứ nhất: Thiền sư Trần Nhân Tông(1258-1308), Tổ thứ hai: Thiền Sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương(1284-1330), tổ thứ 3: thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334).
5.LONG ĐỘNG CỔ CHAI
Cổ chai long động sáng lung linh
Hoa sen, giếng ngọc tự ví mình
Trạng nguyễn lưỡng quốc, lừng danh tiếng
Tinh tuệ trời nam được chứng minh.
Thơ NNTT
Long Động Cổ Chai – Đền thờ lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1272-1346).
6.THƯỢNG TỂ CỔ TRẠCH - TRẦN QUỐC CHUẨN
Cổ trạch về thăm quốc trượng đi,
Chuyện buồn ngày ấy kể làm chi,
Thiên văn, địa lý lòng thông tỏ
Trải chiếu ngồi đây uống rượu.. khì
Thơ NNTT
Thượng Tể Cổ Trạch – Đền thờ Quốc Phụ Huệ Võ Vương Trần Quốc Chuẩn (1281-1328). Ông là người có công lớn trong việc đánh thắng giặc Chiêm Thành.
7.KIM QUY CỔ LOAN
Cổ loan rực rỡ rùa vàng
Cùng sinh, cùng tử, rõ ràng cả năm
Mẫu nghi hai bóng trăng rằm
Ba chàng đại tướng ngự hàng đại vương.
Thơ NNTT.
Kim Quy Cổ Loan – Đền Thờ 5 anh em nhà họ Vương: 2 bà mẫu nghi thiên hạ Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu, và 3 vị Đại vương Vương Minh, Vương Hồng và Vương Xuân.
8.PHAO SƠN CỔ THÀNH - CAO LỖ ĐẠI VƯƠNG
Cổ thành linh khí tựa phao sơn
Về xin cao lỗ đại vương nỏ thần
Bỗng nghe ngựa gióng dừng chân
Nhận ra phù đổng thiên vương đã về
Thơ NNTT
Phao Sơn Cổ Thành – Đền thờ Cao Lỗ Đại Vương
Thông qua những bài thơ của Thầy, cũng như những lần nghe Thầy kể về Bát Cổ tôi được hiểu rõ hơn về Bát cổ là hóa thân của Thất tinh Thiên Trung Bắc Đẩu Cổ Phật gồm có 8 vị trên và 2 vị bồ tát: Bà Chúa Suốt - An lạc tự tại Bồ Tát - Cửa Ông và Hoàng Thái Công - Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát - Chùa Tây Phương. Trong tâm linh khi đất nước Việt Nam ta chưa có chính quyền tâm linh thì bát cổ là những vị lãnh đạo tâm linh Việt Nam. Trong lịch sử mỗi khi đất nước ta, nhân dân ta gặp khó khăn thì các vị phật xuống trần để giúp dân giúp nước. Thông qua bài viết con Xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Thầy cùng các vị bề trên đã luôn dậy dỗ, dẫn dắt chúng con để chúng con trở thành một người tốt. Cảm ơn Thầy đã cho chúng con hiểu biết thêm về các kiến thức tâm linh.
longtadinh
25-06-2019, 15:46
TINH PHI CỔ THÁP
Cổ tháp tinh phi đứng giữa trời
Sao sa ngày ấy sáng muôn nơi
Tam vương nhất kính xuyên trần thế
Giải yếm buông trôi ấm vạn người.
Thơ NNTT.
Tinh phi cổ tháp – Đền thờ bà Nguyễn Thị Duệ. Bà Nguyễn Thị Duệ có tên gọi khác là Nguyễn Thị Du hay Nguyễn Thị Ngọc Toàn hiệu là Diệu Huyền. Bà sinh 14/03/1574. Bà là vị nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam. Thủa nhỏ bà là người thông minh, hiếu học tuy nhiên thời phong kiến không cho phép con gái thi cử vì vậy bà đã cái nam trang để đi thi và đỗ đầu khi mới 20 tuổi. Khi vua Mạc Kính Cung mở tiệc chiêu đãi thì phát hiện bà là nữ cải nam đi thi. Tuy nhiên, nhà vua không trách tội mà còn khen ngợi bà sau đó mời bà vào cung để dậy phi tần rồi được phong làm phi. Năm 1625 quân Lê Trịnh tiêu diệt nhà Mạc, bà bị bắt. Mến tài của bà lên chúa Trịnh vẫn cho bà trông coi việc dậy học trong Vương phủ.
Bà là người khởi đầu cho hình thức đào tạo từ xa của đất nước ta. Bà soạn ra các đề thi rồi gửi về các địa phương để tổ chức thi. Sau đó bài thi được gửi lên cho Bà chấm và trả kết quả về địa phương.
Trước khi bà về quê an dưỡng tuổi già. Để ghi nhận công lao của Bà Vua đã ban cho bà một ân huệ. Bà đã xin Vua một việc đó là ném dải yếm của Bà trên dòng sông, dải yếm trôi đến đâu thì xin Vua miễn thuế cho người dân ở đó. Khi được Vua đồng ý, bà quấn dải yếm vào quả bưởi và ném xuống ngã ba sông dải yếm trôi trên một vùng rất rộng lớn. Thông qua việc làm trên để để thấy tấm lòng của Bà với dân như thế nào?
Bà mất 08/11/1654 hưởng thọ 81 tuổi.
Khi bà mất để tưởng nhớ công lao nhân dân lập đền thờ trước lăng mộ của Bà. Mộ và đền thờ của bà nằm trên dãy núi Phượng Hoàng gần đền thờ Thầy Chu Văn An.
longtadinh
30-11-2019, 21:25
2. TIỀU ẨN CỔ BÍCH
Cổ bích ông tiều ẩn nơi đây
Phượng hoàng đứng đó dưới trời mây
Sớ dâng thất trảm lòng chưa trọn
Vạn năm cùng với nước non này.
1. Thân thế và sự nghiệp của Chu Văn An (1292 - 1370)
Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370)
còn gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiểu Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội. Ngay từ hồi còn trẻ, Chu Văn An đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách và dạy học.
Chu Văn An là danh nho, nhà tho, nhà giáo đời Trần. Thượng hoàng Trần Minh Tông đã mời ông làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám- một chức lãnh đạo ngôi trường cấp cao nhất nước ta. Có lẽ Chu Văn An là người duy nhất trong thời phong kiến nước ta, do việc tự học, tự dạy học mà được triều đình mời ra làm quan - chức quan trông coi việc Quốc học, Quốc giáo. Đến đời Trần Dụ Tông (1314 - 1368) thấy sự suy đồi, ông viết “Thất trảm sớ” xin vua chém 7 gian thần (là cận thần của nhà vua), nhưng không được chấp nhận, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" từ quan về quê dạy học nhưng tâm can vẫn đau đáu ưu lo chính sự. Ít lâu sau, ông dời nhà đến ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặng, huyện Chí Linh (Hải Dương). Trần Nghệ Tông lên ngôi có mời ông ra giúp chính sự, ban chức tước nhưng ông chỉ về kinh chúc mừng, rồi quay về dạy học và làm thơ. Không lâu sau đó, ông ốm mất. Vua Nghệ Tông ban tặng tên thụy cho ông là Văn Tri, sai bề tôi đến tế lễ và cho được thờ ở Văn Miếu.
Trong sự nghiệp giáo dục, Chu Văn An là một nhà giáo chân nho. Ông viết bộ sách “Tứ thư thuyết ước” gồm 10 quyển đều đã bị thất lạc. Dù không giữ được tác phẩm nhưng những tư tưởng châm nho của ông đã được các học trò thấm nhuần và có ảnh hưởng lớn trong việc duy trì truyền thống đạo đức Việt Nam trong bối cảnh triều chính thối nát dưới thời Trần Dụ Tông. Trong hoạt động dạy học của mình Chu Văn An đã nỗ lực giảng giải học thuyết kinh điển của đạo Nho, tạo điều kiện cho lí thuyết Nho giáo của Khổng, Mạnh được dần dần độc tôn trước đạo Phật. Các đời vua sùng Nho sau này rất biết ơn thầy Chu Văn An. Về nhân cách nhà giáo, Chu Văn An là một người thầy uy nghi, mẫu mực, khiến lớp học trò phải kính nể, tôn phục. Những học trò đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, nhưng làm điều sai sót, chưa ổn khi về thăm thầy vẫn bị thầy nghiêm khắc quát mắng.
Trong sự nghiệp văn chương, ông có viết: “Tiểu Ẩn thi tập” và “Quốc ngữ thi tập” nhưng đều không còn giữ được. Người đời sau chỉ còn ghi lại được 11 bài, trong đó có 2 câu được truyền tụng nhất vì thể hiện rõ nhất tư tưởng làm người của Chu Văn An:
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan. Nghĩa là:
Đời như đám mây lẻ, ngừng mãi trong không gian
Lòng như giếng nước xưa, không bao giờ gợn sóng Nhìn chung, hiện nay, không có đầy đủ tài liệu để biết một cách cụ thể về quan niệm học thuật và phương pháp giảng dạy, giáo dục của Chu Văn An. Nhưng các chi tiết về tiểu sử, thơ văn của ông đã lưu lại cho hậu thế về một tấm gương lẫm liệt, tiết tháo thanh cao của một vị tôn sư khẳng khái, về uy tín cao thượng để lại cho nhiều thế hệ học trò, được người đười mãi ngợi ca . Khi ông ra phụ trách trường Quốc Tử Giám, Trần Nguyên Đán đã nói về ông: “Bể học xoay triều sóng, phong tục trở về thuần hậu, trường học lớn trong nước có vị thần như sao Bắc Đẩu, như núi Thái Sơn”. Còn Phan Huy Chú, nhà sử học lớn của Việt Nam đã ca ngợi “Làng nho nước Việt, trước sau chỉ có một ông, các người khác không ai so sánh được”.
Người dân nước ta đã bao đời đều tôn vinh Chu Văn An là “Vạn thế sư biểu” - Người thầy của muôn đời. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, để tưởng nhớ đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một con đường phố và một ngôi trường Trung học lớn của Hà Nội. Năm 2000 Nhà nước đã tạc tượng ông để thờ tại nhà Thái học - Quốc Tử Giám (Hà Nội) nhằm khuyến khích và phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc.
[B] 2. Vài nét khái quát về những đóng góp của Chu Văn An đối với nền giáo dục nước nhà
Thật không dễ để trình bày một cách đầy đủ và toàn diện của Chu Văn An đối với nền giáo dục nước nhà, tuy nhiên, chúng ta có thể khái quát một số đóng góp tiêu biểu của Ông dưới đây:
Quan niệm về đạo đức, uy tín và năng lực của người Thầy: Chu Văn An xác định, người Thầy luôn phải là tấm gương sáng về đạo đức, uy tín và tài năng. Suốt cuộc đời, ông cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Ông là một nhà sư phạm mẫu mực, suốt cuộc đời gắn bó, tận tụy với nghề dạy học, không ham công danh phú quý mà quên đi công việc “dạy chữ, dựng người”. Việc có nhiều đối tượng học trò đến xin học (tương truyền có tới hơn ba nghìn người) và trưởng thành dưới mái trường của ông đã thực sự chứng tỏ uy tín và đạo đức của ông. Uy tín ấy vượt ra khỏi cả sự lưu truyền trần thế, khiến cho vua Thủy Tề cũng phải gửi con theo học (theo truyền thuyết). Như thế, tư tưởng hành đạo, noi theo gương sáng của ông Tổ đạo Nho (Khổng Tử) “học không biết chán, dạy người không biết mỏi” (Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện) đã được Chu Văn An hiện thực hóa. Với việc mở trường tư thục dạy học, ông đã góp phần làm cho không khí học tập cuối thời Trần trở nên sôi nổi.
Chu Văn An đã dùng chính thực học và tài đức của mình mà ảnh hưởng tới nền giáo dục đương thời. Suốt cuộc đời của mình, ông đem sự nhiệt tình và tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Việc ông không hề có tham vọng đem tài năng thi thố làm quan mà lại được mời ra làm một chức quan trông coi việc giáo dục cho triều đình đã thể hiện rõ tinh thần của Thánh hiền đạo Nho: “Không cầu người biết đến mình mà chỉ lo mình không có tài đức để người ta biết đến”.
Chu Văn An luôn xác định rõ nhiệm vụ của người Thầy. Ông dạy học trò là Tú Sĩ rằng: “Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau, đấy đều là phận sự của nhà Nho chúng ta”. Ở đây, có lẽ tư tưởng của Khổng Tử được Chu Văn An thể hiện một cách rõ ràng và mang tính tiến bộ vượt bậc khi ông coi nhiệm vụ của nhà Nho là phải “công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau”.
Về nguyên tắc giáo dục: Chu Văn An luôn chủ trương giáo dục không phân biệt đối tượng. Thời nhà Trần đã có một số trường công do triều đình mở ra như Quốc Tử Giám, trường học ở Phủ Thiên Trường,… nhưng phần lớn các trường này là chỉ dành cho con em quý tộc. Chu Văn An đã mở trường tư thục Huỳnh Cung ở quê nhà để thu nhận học trò nghèo có ý chí trau dồi kinh sử để thi thố tài năng giúp nước. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ”. Thực hiện tư tưởng “hữu giáo vô loại” của Khổng Tử, ông nhận dạy tất cả những người cầu học: Thái tử con vua (sau này làm vua); các học trò đỗ đạt cao, làm quan trong triều (như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh) và biết bao nhiêu học trò khác tuy không thành đạt được như vậy nhưng chí ít cũng thấm đẫm tư tưởng và tinh thần của ông mà đem ảnh hưởng đó tác động đến sự thay đổi của xã hội đương thời. Với tình cảm thương yêu học trò, không phân biệt đối xử, ông nhận được ở họ sự trân trọng, khâm phục và kính yêu. Khi ông mất, nhiều học trò làm nhà bên mộ ông để trọn tình nghĩa thầy trò.
Về nội dung giáo dục: Chu Văn An luôn hướng con người đến lễ nghĩa, nhân hậu và thanh cao. Ông chủ yếu truyền dạy tư tưởng Nho gia cho học trò. Việc ông giảng giải và viết “Tứ thư thuyết ước” đã chứng tỏ cho mục đích cao nhất của ông là “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy sự cung kính, dạy sự trung hậu, dạy sự văn nhã. Tuy có ảnh hưởng triết học Phật giáo và Lão giáo nhưng khuynh hướng Nho học ở ông là chủ đạo. Các học trò của ông đều thể hiện rõ tư tưởng “sùng Nho”, “bài Phật” (sùng bái đạo Nho, bài bác Đạo Phật).
Chu Văn An dẫn dắt học trò đi theo con đường hành đạo của một nhà nho chân chính: sống trong thời loạn lạc, dẫu có thất thế cũng không pha màu u uất, xa lánh trần tục một cách hoàn toàn mà vẫn cứng cỏi trụ vững ở đời, trái tim vẫn chung nhịp với thế cuộc bể dâu. Tuy ở ẩn nhưng “Tấc son nào đã như tro nguội/ Nghe nói Tiên hoàng giọt lệ sa”. Hành động ông trở về triều mừng vua Trần Nghệ Tông lên ngôi (sau sự biến Dương Nhật Lễ) đã thể hiện rõ quan điểm sống không xa rời những biến chuyển của lịch sử Triết lí giáo dục hành động của Chu Văn An còn được thể hiện rõ trong phương châm dạy học luôn gắn liền với thực tiễn đời sống của nhân dân. Ông dạy học trò phải biết kính yêu người dân lao động, có trách nhiệm chăm lo đến đời sống của họ. Tương truyền, trong khi dạy học ở trường Huỳnh Cung gặp phải năm trời đại hạn, Thầy Chu nói với một học trò (sau này ông mới biết là Thủy thần) đem tài năng cầu trời làm mưa để cứu dân. Người học trò ấy đã hi sinh thân mình vẩy mực lên trời cầu mưa cứu cho dân qua khỏi đại hạn đói khát. Tuy câu chuyện có tính chất huyền hoặc nhưng nó cũng cho chúng ta thấy sự lưu truyền về cách dạy học gắn với thực tế đời sống của tiên triết Chu Văn An.
Thêm vào đó, trên cơ sở coi trọng học trò, ông giáo dục cho học trò tinh thần dũng cảm, tiết tháo cao thượng, trừ hại giúp dân cứu nước, sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình. Điều này thể hiện trong hành động dâng “Thất trảm sớ” của ông. Cho đến nay, không ai biết nội dung bản sớ đó ra sao, ông đòi vua phải chém đầu những tên quyền thần nào nhưng với hành động “Nghĩa động Càn Khôn, nghĩa động Quỷ thần” đó, Chu Văn An đã giáo dục học trò và người đời, cả nhà vua khi đó, một bài học: cần phải nghiêm khắc trừng trị những kẻ nịnh thần, gian tham hại dân hại nước. Chỉ ba chữ “Thất trảm sớ” đã làm cho người đời khâm phục, kính trọng ông và hành động theo ông để giữ tròn tiết tháo của một người có trách nhiệm với đất nước non sông. Theo nhận định của sử thần Ngô Sĩ Liên, tấm gương Chu văn An đã góp phần tích cực cải tạo đạo đức xã hội: “Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lí, đào tạo nhân tài thì công khanh đều ở cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập được hay sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng đáng với con người của ông. Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu”.
Về phương pháp giáo dục: Chu Văn An luôn đề cao sự nghiêm khắc trong giáo dục thế hệ trẻ. Sự nghiêm khắc trước tiên phải đến từ những người Thầy. Ông khẳng định: “làm Thầy phải nghiêm”. Sách “Tam tự kinh” - loại sách “khai tâm” của học trò xưa có câu: “Giáo bất nghiêm, sư chi nọa” (Dạy không nghiêm, đạo thầy hỏng). Nghiêm không phải là dữ đòn để cho học trò sợ, mà đối với Chu Văn An, “nghiêm” là thái độ nghiêm trang, mẫu mực trong giáo dục, là việc giảng dạy chặt chẽ, có quy củ, kỷ cương. Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Ông là người trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy”. Sự nghiêm nghị, tiết tháo, thanh cao của ông đã thực sự là tấm gương lẫm liệt tỏa sáng cho học trò noi theo. Ảnh hưởng từ tấm gương thực tiễn của ông đối với trí thức đương thời là rất lớn.
Về vấn đề biên soạn tài liệu dạy học: Chu Văn An luôn quan tâm đến việc biên soạn tài liệu để giúp cho người học có được tài liệu học tập. Đây là một điểm mới trong cách quan niệm về nội dung và phương pháp giáo dục của ông. Không chỉ chú trọng nội dung giáo dục về đạo làm người theo tinh thần Nho gia (ông viết “Tứ thư thuyết ước” - đã thất lạc - và có lẽ đây là bộ sách đầu tiên luận giải về Nho giáo một cách có hệ thống) mà Chu Văn An còn biên soạn cả những tài liệu về y học trị bệnh cứu người - “Y học yếu giải tập chu di biên”. Ông cũng viết hai tập thơ “Quốc ngữ thi tập” và “Tiều ẩn thi tập” để bồi bổ thêm tinh thần và kiến thức sâu rộng, toàn diện cho học trò. Việc Chu Văn An viết sách không chỉ đơn giản là để làm tài liệu học tập mà cao hơn cả là qua đó, để gìn giữ và khuếch trương di sản văn hóa của dân tộc (dùng chữ Nôm), khẳng định sự độc lập về văn tự đối với nền văn hóa Hán. Cũng trong các tác phẩm ấy, để thể hiện rõ tính chất dân tộc trong văn hóa, thi ca, ông không hề vay mượn những điển tích ngoại lai mà chỉ miêu tả những gì hiện thực trước mắt, những cảnh đẹp thiên nhiên và con người Đại Việt. Đây là phong cách đặc biệt trong các nhà nho thời Trần mà đi đầu là nhà sư phạm mẫu mực Chu Văn An.
Như vậy có thể nói rằng, Chu Văn An đã để lại cho hậu thế rất nhiều kinh nghiệm giáo dục cho thế hệ trẻ. Những kinh nghiệm giáo dục của Chu Văn An được vận dụng mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực qua đó càng khẳng định những đóng góp to lớn của ông đối với sự nghiệp giáo dục nước nhà suốt theo chiều dài lịch sử.
Nguồn: http://vanmieu.gov.vn/m/vi/chu-van-an---cuoc-doi-va-nhung-dong-gop-doi-voi-giao-duc-906F23E343D551158A6D65A3C06737CC.html.
Tác Giả: PGS. TS. Dương Hải Hưng- TS. Mai Quốc Khánh
(Trường Đại học Sư phạm Hà Nội )
Nếu không theo tập KCTL thì chắc là những hiểu biết của Tôi về Thầy Chu Văn An cũng chỉ là qua bài viết trên. Khi theo học KCTL được nghe Thầy NQT kể chuyện về Thầy Chu Văn An. Tôi được biết thêm rất nhiều thông tin liên quan đến Thầy Chu Văn An. Khi khấn Thầy đầy đủ thì phải khấn: “Thần y dược – Tôn sư Đại học sĩ – Tư nghiệp Quốc Tử Giám – Thủy cốc Tiên sinh – Bát cổ nhị Hoàng hoa”. Thầy Chu Văn An là một vị Phật xuống trần. Thầy Chu Văn An là một trong những người Thầy dậy dỗ Thầy NQT trong nhiều kiếp. Thầy không những là một nhà nho giáo, trong không gian Thầy con là một thần y dược rất giỏi.
longtadinh
31-08-2020, 22:20
3.DƯỢC VIÊN CỔ LĨNH
Cổ lĩnh dược viên một vườn cây
Ung dung dạo bước dưới trời mây
Vuốt dâu cười khểnh trông phương bắc
Ái quốc trung quân một kiếp này
Thơ NNTT.
Dược Viên Cổ Lĩnh là đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tướng Trần Hưng Đạo là một vị tướng có có công lao rất lớn thời nhà Trần. Các tài liệu ghi lại không rõ năm sinh của Ông, Ông mất năm 1300. Ông là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần, được biết đến trong lịch sử Viêt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên - Mông năm 2185 và năm 1288.
Cuộc đời và thân thế sự nghiệp của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Trần Hưng Đạo (Chữ Hán: 陳興道: ? – 1300), còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương (興道大王) hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương (仁武興道大王). Ông ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bầy mưu giữ cho thế nước trông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thày dạy giỏi cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác cho con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn. Ông là con trai thứ ba của Khâm Minh đại vương Trần Liễu – anh cả của Trần Thái Tông Trần Cảnh, do vậy Trần Quốc Tuấn gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột. Cho đến nay vẫn không rõ mẹ ông là ai, có một số giả thiết đó là Thiên Đạo Quốc Mẫu (善道國母), huý là Nguyệt, một người trong tôn thất họ Trần. Do chính thất khi trước của Trần Liễu là công chúa Thuận Thiên trở thành Hoàng Hậu Của Trần Thái Tông, nên Thiện Đạo quốc mẫu trở thành kế phu nhân. Sau khi Trần Liễu mất (1251) theo "Trần triều thế phả hành trạng" thì bà Trần Thị Nguyệt đã xuất gia làm ni sư, hiệu là Diệu Hương. Ông là người thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Song cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn, ông tỏ ra một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng.
Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hoà hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hoà hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.
Chuyện kể rằng: Thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải...
Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con. Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận, dừng gươm và bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa!
Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt chỉ chống gậy không mỗi khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan, yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Ông là một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua vì nước.
Năm 1283, Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng: Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu, Trương Hán Siêu... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông soạn hai bộ binh thư: "Binh thư yếu lược" và "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông..."Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...", "Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại, tiến lui.
Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn mang tầm tư tưởng của một bậc đại bút .
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên - Mông , Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.
Năm 1258, Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh chặn quân Mông Cổ ở Hưng Hoá.
Năm 1284, khi quân Nguyên - Mông chuẩn bị sang xâm lược Đại Việt lần thứ II, Trần Quốc Tuấn tổ chức duyệt quân ở Đông Bộ Đầu, đọc “Hịch tướng sĩ”, tổ chức rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng.
Cuối tháng 2 năm 1285, quân Nguyên – Mông vào Thăng Long, vua Trần lo ngại ướm hỏi, Trần Quốc Tuấn khảng khái thưa: “Nếu bệ hạ muốn hàng, trước hết xin hãy chém đầu thần”.
Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn cho quân Trần tổng phản công và trực tiếp chỉ huy đánh thắng trận đầu ở A Lỗ; liên tiếp thắng lớn trong các trận: Hàm Tử, Chương Dương và Vạn Kiếp, đánh bại cuộc xâm lược lần thứ II của Nguyên – Mông.
Năm 1287, trước tình thế quân Nguyên – Mông chuẩn bị xâm lược Đại Việt lần III, vua Trần hỏi về thế địch, Trần Quốc Tuấn thưa: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Khi triều Trần muốn tuyển mộ thêm quân, Trần Quốc Tuấn nêu nguyên tắc “Quân cần tinh, không cần nhiều” và chính mình rèn quân theo nguyên tắc đó.
Tháng 1 năm 1288, quân Trần đánh thắng trận Vân Đồn.
Tháng 4 năm 1288, thắng lớn trong trận Bạch Đằng và trận phục kích ở ải Nội Bàng (Bắc Giang), tiêu diệt hàng vạn quân địch, đánh bại ý đồ xâm lược của quân Nguyên. Được vua Trần phong: thái sư thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Hai tháng trước khi mất, Vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm có hỏi: Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?. Ông đã trăng trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước: "Thời binh phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước".
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tí, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc Đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời.
Theo lời dặn lại, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, san phẳng trồng cây như cũ.
Khi ông mất, vua phong cho ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết. Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng ông gọi là Hưng Đạo Đại vương. Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá Việt Nam.
longtadinh
01-01-2021, 21:51
4.HUYỀN THIÊN CỔ TỰ
Cổ tự huyền thiên thông vẫn xanh
Chênh vênh sườn núi điểu nghe kinh
Lan xa dưới ngõ khua rừng vắng
Hay lòng tam tổ độ chúng sinh.
Thơ NNTT.
Huyền Thiên Cổ Tự - Ngôi chùa Tam tổ trúc lâm đã tu luyện ở đó thờ tam tổ trúc lâm. Tam tổ trúc lâm là 3 vị sư tổ của thiền phái trúc lâm yên tử. Tổ thứ nhất: Thiền sư Trần Nhân Tông(1258-1308), Tổ thứ hai: Thiền Sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương(1284-1330), tổ thứ 3: thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334).
Sư Tổ Trần Nhân Tông sinh 07 tháng 12 năm 1258 – mất 16 tháng 12 năm 1308. Tên khai sinh là Trần Khâm, là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông là con trai đầu lòng của Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Hậu Trần Thị Thiều. Năm 1274, ở tuổi 16, Trần Khâm được vua cha sách phong làm Hoàng Thái Tử. Trần Thánh Tông cũng lập trưởng nữ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (tức Khâm Từ Hoàng Hậu sau này) làm Thái tử phi. Vua Trần Thánh Tông còn vời các nho sĩ có tài đức trong cả nước về hầu cận thái tử. Tướng Lê Phụ Trần được phong chức Thiếu sư, kiêm Trừ cung Giáo thụ, đảm trách việc dạy học thái tử. Tuy ở ngôi Thái Tử và có hôn nhân hạnh phúc, Trần Khâm có chí hướng xuất gia theo Phật. Ông đã nhiều lần xin nhường ngôi Thái tử cho em là Tá Thiên vương Trần Đức Việp nhưng không được vua cha chấp thuận. Có lần, Trần Khâm nhân đêm khuya vượt thành đi vào núi Yên Tử ẩn tu, đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời sáng, ông đã thấm mệt nên vào nghỉ trong tháp. Vị tu sĩ ở chùa thấy ông có dung mạo phi thường bèn mời cơm. Sau Trần Thánh Tông và Hoàng Hậu biết tin, sai quan quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô; Trần Khâm bèn miễn cưỡng nhận ngôi thái tử. Ông lên ngôi và trị vì đất nước từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái Thượng Hoàng cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỉ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật Giáo Việt Nam thời Trung Đại.
Vị Hoàng Đế trẻ sớm phải đương đầu với hiểm họa xâm lược từ đế quốc Mông - Nguyên hùng mạnh ở phương Bắc. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn định chính trị - xã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt huy động đã một lực lượng lớn (theo Đại Việt sử ký toàn thư là 50 vạn người) tấn công Đại Việt. Quân dân Đại Việt ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tông, Thượng hoàng Thánh Tông và Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, người Việt đã dần dần xoay chuyển tình thế và đánh bật quân Nguyên ra khỏi đất nước. Sau đó, 2 vua Trần và Hưng Đạo Vương tiếp tục lãnh đạo dân Việt đánh bại một cuộc xâm lược khác của Mông – Nguyên vào năm 1287.
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã khôi phục được sự hưng thịnh của Đại Việt đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái Thượng Hoàng. Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phật lấy hiệu Trúc Lâm Đại sĩ, nhưng ông vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về phương Nam bằng phương pháp ngoại giao.
longtadinh
31-08-2021, 21:36
Thiền Sư Pháp Loa tên tục là Đồng Kiên Cương (sinh ngày 7 tháng 5 năm giáp thân, tức 23 tháng 05 năm 1284 – 22 tháng 03 năm 1330), quê ở hương Cửu La, huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Cha ông là Phật tử, họ Đồng, có pháp danh Thuần Mậu; mẹ là Vũ Từ Cứu. Tương truyền, mẹ ông nằm mộng thấy dị nhân trao cho kiếm thần và sau đó mang thai. Trước đó bà đã sinh 8 người con gái, nên khi có ông, tưởng sẽ là gái nữa, nên thất vọng uống thuốc phá thai. Phá tới bốn lần mà thai không hư, vì thế khi ông sinh ra, mẹ ông rất vui mừng, đặt tên ông là Kiên Cương, có nghĩa là "cứng rắn". Pháp Loa là đạo hiệu sư tổ Trần Nhân Tông đặt. Ông còn có tên là Minh Giác hay Phổ Tuệ Tôn giả , là một thiền sư, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại thừa ở Đại Việt thế kỷ 13. Ông tu theo pháp môn cả Mật Tông và Thiền Tông, là môn đệ của Sư Tổ Trần Nhân Tông, và làm Tổ sư thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Ông xuất gia 1304, hành đạo suốt 26 năm cho tới khi qua đời ở tuổi 47. Trong quá trình hành đạo, ông đã xây cất nhiều chùa tháp trong nước, truyền bá rộng rãi những lời dạy của Phật thích-ca Mâu-ni và Tổ sư Thiền, kết nạp nhiều tăng ni, cư sĩ trong đó có các vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông cùng nhiều thành viên hoàng gia và đại thần. Ông còn là người ấn hành Địa tạng kinh tại Việt Nam khoảng năm 1329 và đã để lại nhiều tác phẩm Thiền học và luận thuyết về các kinh Nhập Lăng-già, Diệu pháp liên hoa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Hiện nay, bộ sách chủ yếu còn sót lại về cuộc đời ông là Tam Tổ thực lục , ra đời khoảng thế kỷ 14, kể tiểu sử 3 vị tổ sư phái Thiên Tông Trúc Lâm.
Theo các sách cổ, Đồng Kiên Cương còn nhỏ đã có chí khác thường, không nói lời ác, không thích ăn đồ cay nồng và thịt, cá.
Năm 1293, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông. Năm 1299, thượng hoàng Nhân Tông lên núi Yên Tử (Quản Ninh) sống đời sa-môn, lấy đạo hiệu "Điều Ngự Giác Hoàng". Năm 1304, Điều Ngự đi khắp nơi trong nước, có ý tìm người kế thừa. Khi xa giá vừa đến thôn, Đồng Kiên Cương đỉnh lễ xin xuất gia, Trần Nhân Tông bảo ngay: "Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là pháp khí", mới đặt tên ông là Thiện Lai cho theo về thụ giới Sa-di. Khi về liêu Kỳ Lân núi Linh Sơn (Chí Linh, Hải Dương), Điều Ngự lại bảo Thiện Lai đến chùa Quỳnh Quán học nơi Hoà thượng Tính Giác. Ông hỏi rất nhiều điều nhưng hoà thượng vẫn chưa giải đáp triệt để. Không thỏa mãn, ông bèn nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, khi chiêm nghiệm chỗ tôn giả A-nan-đà (Ānanda) hỏi Phật bảy lần về vị trí của tâm và đoạn ví dụ khách trần thì có sở đắc.
Sau một thời gian ở Quỳnh Quán, Thiện Lai từ tạ trở về với Điều Ngự. Khi Điều Ngự lên pháp đường đọc bài tán Thái dương ô kê, Thiện Lai có phần chứng ngộ. Điều Ngự bèn cho ông theo hầu bên mình. Một hôm, ông dâng ba bài tụng nhưng cả ba đều bị chê. Điều Ngự khuyên ông phải tự tham. Ông vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, nhìn thấy bông đèn tàn rụng xuống bỗng nhiên đại ngộ. Điều Ngự âm thầm ấn khả cho ông. Từ đây, ông lập chí tu theo 12 hạnh Đầu-đà.
Năm 1305, Điều Ngự đích thân truyền Giới Thanh văn và Giới Bồ Tát cho ông. Điều Ngự thấy Thiện Lai tu tập tiến bộ nên bạn đạo hiệu Pháp Loa. Năm 1306, Điều Ngự cử Pháp Loa làm chủ giảng tại chùa Báo Ân. Tại đây ông gặp người đệ tử tương lai – Huyền Quang lần đầu tiên, lúc đó ông mới 23 tuổi. Bấy giờ, Huyền Quang đã thọ giới với Bảo Phác, đi cùng thầy mình đến chùa Báo Ân nghe thuyết pháp. Điều Ngự thấy vậy bèn nhận Huyền Quang làm thị giả. Tháng 4 âm lịch năm 1307, Điều Ngự an cư ở am Thiên Bảo, có 7-8 thị giả theo hầu. Xét thấy Pháp Loa là người đứng đầu trong các thị giả, Điều Ngự thuyết Đại Tuệ Ngữ Lục cho ông nghe. Tháng 5 âm lịch năm này, ông theo Điều Ngự lên ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử. Ngày rằm tháng này, Điều Ngự làm lễ "bố tát", sau đó cho các đệ tử khác xuống núi, chỉ giữ Pháp Loa ở lại. Điều Ngự đem y bát và tâm kệ giao phó ông, cùng lời dặn phải giữ gìn.
Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1308, tại Cam Lộ Đường chùa Siêu Loại, Điều Ngự trao Pháp Loa chức trụ trì chùa Siêu Loại đồng thời xác nhận ông là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Buổi lễ được tổ chức Long trọng dưới sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông, quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chuẩn và đông đảo bá quan. Sách Tam Tổ thực lục đã thuật lại:
“
Ngày mồng một tháng 1 năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308), Sư phụng mệnh nối dòng pháp, trụ trì Cam Lộ Đường chùa Siêu Loại. Mở đầu buổi lễ truyền thừa Tổ vị, Điều Ngự cho tấu đại nhạc, đốt danh hương, dẫn Sư lễ Tổ đường rồi ra điểm tâm. Sau khi điểm tâm, Điều Ngự lại sai tấu nhạc, đánh trống pháp, tập họp đại chúng tại pháp đường. Lúc bấy giờ vua Anh Tông ngự giá đến chùa, vì vua là đại thí chủ của Phật pháp, nên khi phân ngôi chủ khách, vua đứng vào vị trí khách tại pháp đường, còn Thượng tể thì hướng dẫn các quan đứng dưới sân. Điều Ngự lên tòa thuyết pháp, giảng xong, bước xuống đỡ Sư lên tòa, Điều Ngự đứng đối diện chấp tay thăm hỏi. Sư đáp lễ xong, liền nhận Pháp y mặc vào. Điều Ngự bèn bước sang một bên, ngồi trên giường khúc lục, nghe Sư thuyết pháp. Rồi đem chùa Siêu Loại của sơn môn Yên Tử giao cho Sư, bảo phải kế thế trụ trì, làm Tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm. Lại đem một trăm hộp kinh sử ngoại điển và hai mươi hộp Đại Tạng cỡ nhỏ viết bằng máu trao cho Sư để mở mang sự học nội và ngoại điển.
”
Tam Tổ thực lục
Cùng năm, thiền sư Pháp Loa nhận chiếu của vua Anh Tông, truyền giới Xuất gia và giới Bồ tát cho Tuyên Từ Hoàng thái hậu cùng Thiên Trinh Trưởng công chúa tại chùa Siêu Loại. Nhà vua còn sai Trung thư Thị lang Vương Công Trứ cấp độ điệp cho Pháp Loa, ý nói ông là người nối dòng chính thống của thiền phái Trúc Lâm, không phải bị ràng buộc bởi luật pháp thế tục.
Tháng 11 âm lịch năm 1308, Điều Ngự viên tịch, Pháp Loa phụng mệnh đưa xá lợi về kinh đô và thuyết pháp cho hoàng gia. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bộ quốc sử do sử quan Nho gia đời Lê là Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479, thời Lê Thánh Tông, có ghi nhận sự hiện diện của Pháp Loa trong lễ tang Thượng hoàng Trần Nhân Tông/Giác Hoàng Điều ngự:
“
Pháp Loa thiêu [xác Thượng hoàng] được hơn ba ngàn hạt xá lỵ mang về chùa Tư Phúc ở kinh sư. Vua [tức Anh Tông] có ý ngờ. Các quan nhiều người xin bắt tội Pháp Loa. Hoàng thái tử Mạnh mới 9 tuổi, đứng hầu bên cạnh, chợt thấy có mấy hạt xá lỵ ở trước ngực, đưa ra cho mọi người xem, kiểm lại trong hộp, thì đã mất một số ít hạt. Vua xúc động đến phát khóc, trong lòng mới khỏi nghi ngờ.
”
Sau khi trở về núi, Pháp Loa soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch thất và biên tập lại dưới tên Thạch thất mị ngữ. Theo Tam Tổ Thực Lục, hàng ngày Pháp Loa rất chăm chỉ đảnh lễ Phật, trì tụng thần chú. Ông còn soạn bài phát nguyện trong Lục Thời Nghi, có nội dung chính là:
“
Chư Phật, Bồ-tát có những hạnh nguyện gì đều xin học cả. Hết thảy chúng sanh hoặc tán dương hay hủy báng, hoặc kính trọng hay xem thường, hoặc bố thí hay cướp đoạt, mà khi gặp mặt hay nghe tên, đều nguyện độ cho họ được giác ngộ.
”
Ngày 14 tháng 7 âm lịch năm 1309, nhân đại lễ Vu-lan-bồn, Trần Anh Tông mời Pháp Loa tham dự lễ cúng chay Giác hoàng Điều ngự. Pháp Loa gặp Huyền Quang và nhắn nhủ: "Những điều mà Điều Ngự Giác Hoàng dặn dò, nhà ngươi đã quên hết rồi sao?". Từ đây, Huyền Quang tinh tấn tu học và tham gia truyền bá giáo pháp, giúp Pháp Loa mở rộng Thiền phái Trúc Lâm (bấy giờ, Huyền Quang làm trụ trì chùa Vân Yên – núi Yên Tử, giảng dạy cho hàng ngàn học tăng).
Năm 1310, Trần Anh Tông ra chiếu, quy định 3 năm độ tăng 1 lần. Cùng năm đó, nhân lễ cúng chay Điều Ngự vào ngày Vu-lan, Pháp Loa giảng nội dung căn bản kinh Hoa Nghiêm.
Trước đây, năm 1295, thượng hoàng Trần Nhân Tông sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo sang nước Nguyên, thỉnh bộ Địa tạng kinh (gồm 7.182 quyển) từ chùa Hoằng Pháp (Bắc Kinh) về phủ Thiên trường. Sau đó, triều đình ra lệnh khắc bản Đại tạng kinh, nhưng công việc bị hoãn lại khi Nhân Tông Điều ngự viên tịch năm 1308. Đến năm 1311, vua Anh Tông thỉnh cầu Pháp Loa tiếp tục khắc bản để in Đại tạng kinh. Pháp Loa giao phó thiền sư Bảo Sát, – thị giả của Nhân Tông Điều ngự lúc sinh thời – trông coi việc này. Tháng 4 âm lịch năm 1311, Pháp Loa làm trụ trì chùa Báo Ân – Siêu Loại, tại đây ông giảng Truyền Đăng Lục và nghe kiến giải Phật pháp của Huyền Quang; các kiến giải này đều được Pháp Loa đồng ý.
Tháng 11 âm lịch năm 1312, triều đình thỉnh Pháp Loa tới kinh sư, giảng Đại Tuệ Ngữ Lục ở chùa Tư Phúc (hay chùa Thiên Phúc) trong hoàng thành. Vua Trần Anh Tông trích 5 vạn quan tiền từ kho riêng ra cúng dường cho Pháp Loa; thiền sư lại đem số tiền này bố thí cho người nghèo. Nhà vua còn ngỏ ý cấp thuyền và phu chèo cho Pháp Loa dễ thăm kinh đô, nhưng thiền sư khước từ. Nhà vua lại sai người tôn thất cống hiến cho sư 500 mẫu ruộng ở nông trại Niệm Như.
Ngày 1 tháng 2 âm lịch năm 1313, viện chủ viện Na-Già là Tổ Long Đàm thỉnh Pháp Loa thăm viện này; tại đây, ông giảng các sách Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục và kinh Duy-ma-cật. Trong số những Phật tử nghe pháp có vua Trần Anh Tông. Sau đó, nhà vua giúp Pháp Loa tu bổ chùa Báo Ân – Siêu Loại (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Nhà vua đứng ra cung cấp những "vật liệu của Tam Bảo" lấy từ cung Thánh Từ (Thăng Long); các quan lo việc cung cấp nhân công, thợ xây cây gỗ. Sau khi chùa khánh thành, nhà vua đã nhiều lần đến thăm, sửa sang thêm cho chùa.
Tháng 9 âm lịch năm 1313, thiền sư Pháp Loa tới chùa Vĩnh Nghiêm ở làng Đức La, phủ Lạng Giang (nay thuộc Bắc Giang), sắp đặt chức vụ và lập sổ bộ cho tăng ni trong nước. Từ đây, chư tăng đều có sổ bộ và được đặt dưới sự quản lý của Pháp Loa. Với hoạt động này, ông xúc tiến việc ổn chức giáo hội thống nhất và xác lập chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm của Thiền phái Trúc Lâm. Ông cũng khai mạc Đại giới đàn, kết nạp khoảng 1000 đệ tử xuất gia. Đây là cột mốc đầu tiên của việc thực hiện quy định 3 năm mở 1 đại giới đàn độ tăng; các đại giới đàn về sau mỗi lần độ gần 1000 người.
Năm 1314, Trần Anh Tông nhường ngôi cho hoàng thái tử Mạnh, tức vua Trần Minh Tông. Minh Tông giúp Pháp Loa dựng 3 pho tượng Phật cao 17 thước trong chùa Siêu Loại, lại cho lập thêm điện Phật, gác kinh, nhà Tăng, tổng cộng có 33 cơ sở. Pháp Loa đứng ra đặt tên cho các cơ sở mới này. Vua Minh Tông đích thân viết tấm biển “Nhị hương điện” trao cho chùa; ngoài ra, thượng hoàng Trần Anh Tông cũng cúng dường 500 hộp Đại Tạng kinh làm của thường trụ chùa.
Năm 1316, thượng hoàng Anh Tông thỉnh Pháp Loa vào nội điện trao giới Bồ-tát tại gia cho vua Minh Tông.
Tháng 2 âm lịch năm 1317, thiền sư Pháp Loa lâm bệnh nặng. Ông viết bài tâm kệ rồi đem cùng pháp y của Điều Ngự phó thác cho Huyền Quang. Ông còn giao phó cho Cảnh Ngung tích trượng, giao phó cho Cảnh Huy phất tử, giao phó cho Huệ Quang gậy tre (trúc bề), giao phó cho Huệ Nhiên kinh tạng và dụng cụ làm đạo, rồi lại giao linh vàng cho Hải Ấn và chày vàng cho Huệ Chúc. Chẳng bao lâu sau, Pháp Loa khỏi bệnh, Huyền Quang xin trả lại tâm kệ và pháp y.
Tháng 12 âm lịch năm 1317, Pháp Loa kiến lập viện Quỳnh Lâm (nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh). Tư Đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều (cháu nội Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn) đóng góp cho viện 4.000 quan tiền. Một cư sĩ khác, Nguyễn Trường người ở Vân Động cũng ghé thăm, bái yết Pháp Loa và đóng góp cho ông 75 mẫu ruộng, dùng làm của thường trụ viện Quỳnh Lâm. Cùng năm này, Pháp Loa khánh thành chùa Bảo Sơn Vương ở Cổ Thành; triều đình sai họa sĩ là Hứa Khắc Thành vẽ chân dung đứng của thiền sư.
Tháng 8 âm lịch năm 1318, thượng hoàng Anh Tông xuống chiếu, thỉnh Pháp Loa về am Thường Lạc ở Thiên Trường(Nam Định) – đời Trần, đây là thượng hoàng ở sau khi nhường ngôi. Tại đây, ông giảng sách Truyền Đăng Lục; đến tháng 12 âm lịch năm 1318, ông lại giảng sách Tuyết Đậu Ngữ Lục. Sau khi nghe giảng, thượng hoàng đích thân viết 4 chữ Phổ Tuệ Tôn Giả trao cho ông. Cũng từ thời điểm này, Anh Tông và Minh Tông nhiều lần viết thư hỏi thăm, trình bày sở đắc cho Pháp Loa, trong đó hai vua luôn nhận mình là đệ tử.
Pháp Loa còn được nhiều thành viên hoàng gia, như thái hậu, hoàng hậu, vương hầu, cung phi, công chúa, và đại thần triều đình nhiệt tình ủng hộ. Nhiều người trong số họ đã xuất gia hoặc thọ giới Bồ-tát dưới sự hướng dẫn của Pháp Loa. Ngoài ra, họ còn đóng góp nhiều tiền của, vàng bạc để hỗ trợ Pháp Loa xây, mở mang chùa tháp, tự viện, dựng tượng Phật, tượng Thánh tăng, in kinh sách,... Sự cúng dường nồng nhiệt của họ khiến Pháp Loa và Thiền phái Trúc Lâm luôn có đủ điều kiện kinh tế để hành đạo.
Thời kỳ làm đạo của Pháp Loa, Phật giáo Mật tông bắt đầu ảnh hưởng vào Đại Việt. So với Phật giáo đời Lý, Phật giáo đời Trần hầu như không mang dấu vết Mật tông. Điều này thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của vua-thiền sư Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Đến thời Pháp Loa, nghi thức Quán đảnh (Abhiseka) được thực hiện khá phổ biến ở Đại Việt. Ngoài ra, năm 1318, vua Minh Tông hạ chiếu, thỉnh Pháp Loa nhờ vị tu sĩ người Nam Á Ban-để-ba-ô-sá-thất-lợi (Panditausasri) dịch kinh Bạch Tán Cái Thần Chú (Mahasitatapatradharani), một tài liệu của Mật tông. Bản thân Pháp Loa cũng soạn sách Kim cương đạo trường đà-la-ni kinh khoa chú, chú giải kinh Kim cương đạo trường đà-la-ni (Vajramanda dharani) cũng của Mật tông. Ngay cả trong sách Thiền đạo yếu học nói về đạo Thiền của mình, Pháp Loa cũng nhắc đến Phật Đại Nhật Như Lai (Vairocana), một vị Phật quan trọng trong Mật giáo.
Năm 1318, Pháp Loa nhận chiếu vua Minh Tông, đón tiếp vị trưởng lão nước Nguyên là Vô Phương (Wu Fang) từ Hồ Nam tới.
Năm 1319, Đại Việt gặp lũ lụt, đói kém. Hai vua Trần trích 100 lượng vàng và 500 lượng bạc từ kho riêng, giao cho Pháp Loa trợ cấp dân chúng. Cùng năm, Pháp Loa được Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn – em trai Anh Tông và là tể tướng đầu triều – mời về giảng Đại Tuệ Ngữ Lục ở chùa Thiên Linh, phủ An Hoa. Nhân khi ông trú ở chùa Báo Thiên, công chúa Hoa Dương (con gái thứ sáu của Trần Thái Tông) xin Pháp Loa thuyết pháp, rồi truyền giới Bồ-tát tại gia cho công chúa cùng nhiều người khác.
Tháng 12 âm lịch năm 1319, Pháp Loa kêu gọi Tăng chúng và cư sĩ chích máu in Đại tạng kinh hơn 5000 quyển, lưu hành tại viện Quỳnh Lâm. Thượng hoàng Trần Anh Tông cũng tự chích máu mình viết Đại tạng kinh cỡ nhỏ, tổng cộng 20 hộp. Theo tác giả Nguyễn Hiền Đức trong sách Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài, sư huynh Pháp Loa là Bảo Sát, người chủ trì việc khắc bản in kinh, đã không cho in toàn bộ 6.010 quyển của Đại Tạng kinh nước Nguyên; thay vì đó, Bảo Sát lược đi một số kinh, rồi bổ sung thêm một số kinh điển của thiền sư, tăng sĩ thời Lý-Trần như Vạn Hạnh, Thường Chiếu, Trần Thái Tông, Nhân Tông Điều Ngự,... Sau cuộc xâm lược nước Việt của nhà Minh năm 1406-1407, người Minh đã thiêu hủy, tịch thu hết sách vở của dân tộc Việt, vì vậy bộ kinh này ngày nay không còn.
Ngày 16 tháng 3 âm lịch năm 1320, thượng hoàng Anh Tông qua đời ở phủ Thiên Trường, được đưa về táng ở Thái Lăng trên núi Yên Sinh, nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh. Pháp Loa đã thuyết pháp cho hoàng gia khi nhập quan tài và khi hạ huyệt chôn thượng hoàng. Cùng năm đó, ông được Tuệ Nhân Đại vương (không rõ tên) mời về chùa Vũ Đinh để thọ tâm giới Bồ tát tại gia. Năm sau (1321), Pháp Loa trao giới này cho Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử, người đã bày tỏ lòng mộ đạo qua việc đúc một tượng Bồ tát Thiên thủ thiên nhãn. Ông còn nhận chiếu của Minh Tông, đặt pháp hiệu cho Hoàng thái phi Chiêu Từ và viết lời bạt sau bộ Đại Tạng Kinh mà trước đây Anh Tông và các hậu, phi đã chích máu viết nên.
Năm 1321, Pháp Loa tới chùa Sùng Nghiêm (Chí Linh), truyền giới Bồ-tát tại gia cho Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn. Sau đó, ông được thầy Thu Tử – trụ trì chùa Diên Quang ở Hiển Linh thỉnh về giảng phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm – một bộ kinh quan trọng trong Phật giáo Đại Thừa. Từ đây bắt đầu công cuộc chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm của Pháp Loa. Năm 1322, thể theo lời mời của Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử và Thầy chủ sự Huyền Quang, Pháp Loa ghé chùa Báo Ân–Siêu Loại giảng hội thứ hai của kinh Hoa Nghiêm. Đến khi viên tịch năm 1330, ông đã giảng chín hội Hoa Nghiêm ở nhiều chùa khác nhau, mỗi lần giảng có hơn hàng ngàn người nghe.
Ngày 13 tháng 6 âm lịch năm 1322, vua Trần Minh Tông thỉnh thiền sư Pháp Loa biên chép sách Tham thiền chỉ yếu (có thể cũng có tên Thiền đạo yếu học). Tác phẩm này ghi lại bài giảng của Nhân Tông Điều ngự năm 1306 ở viện Kỳ Lân, trích dẫn một số lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ và chịu ảnh hưởng lớn từ dòng thiền Lâm Tế. Công việc hoàn thành, ông được nhà vua tặng thêm hiệu là Minh Giác . Cùng năm đó, Pháp Loa khánh thành các am Hồ Thiên, Chân Lạc, và phát động xây 1.000 pho tượng Phật. Ông giao cho sư chùa Phổ Quang là Trừng Chiếu giám sát việc thi công. Công việc nhận được sự ủng hộ nồng hậu từ nhiều thành viên hoàng gia và đại thần – tiêu biểu như Hoàng thái hậu Bảo Từ, Quốc mẫu Bảo Huệ, Công chúa Bảo Vân, Kiểm hiệu Tư đồ Trần Quang Triều, Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử, Hữu bật Đoàn Nhữ Hải,... Đến năm 1324, việc đúc 1000 pho tượng Phật hoàn tất; Pháp Loa vào chùa Phổ Quang ở Nghĩa Trụ dự lễ điểm nhãn các tượng này.
Năm 1322, nhận lời mời của Tư đồ Quang Triều, Pháp Loa ghé thăm dinh An Long, thuyết giảng kinh Thủ- Lăng- Nghiêm, rồi kiểm tra và sớ giải sách Tứ phần luật. Sau khi Pháp Loa kiểm định và sớ giải xong, Trần Quang Triều in hơn 5.000 quyển cúng dường cho các chùa. Pháp Loa thỉnh cầu các sư huynh là Quốc sư Tông Cảnh (chùa Tiên Du) và Quốc sư Bảo Phác (núi Vũ Ninh) ghé chùa Siêu Loại, giảng cho các sư về Tứ phần luật. Sau đó, cho đến khi mất năm 1330, Pháp Loa tiếp tục truyền giới Bồ-tát, giới Xuất gia và phép Quán đỉnh cho nhiều quý tộc, trong đó có Tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều, công chúa Tuyên Chân (con gái Quốc phụ Thượng tể Quốc Chẩn), công chúa Lệ Bảo (con gái Chiêu Huân Vương), Hoàng thái phi Chiêu Từ và các cung nhân của Trần Minh Tông.
Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1325, Pháp Loa được Quốc mẫu Bảo Huệ thỉnh đến cung Dưỡng Phúc, thuyết kinh Kim Cương Niệm Tụng. Không lâu sau, ông ghé chùa Tư Phúc ở kinh sư giảng Tuyết Đậu ngữ lục. Ngày 1 tháng 9 âm lịch năm này, ông lại vào chùa Tư Phúc giảng kinh Viên Giác.
Các năm 1319, 1325, 1326, đất nước gặp hạn hán, triều đình mời Pháp Loa tổ chức cầu mưa. Ông nhận lời, nhờ các sư đi cầu mưa, lần nào sử cũng chép là "ứng nghiệm".
Tháng 10 âm lịch năm 1327, Pháp Loa kiến lập các am An Mã, Thị Khê và Hạc Lai.
Tháng 9 âm lịch năm 1328, vua Trần Minh Tông ban chiếu mời Pháp Loa làm sách Nhân vương hộ quốc nghi quỹ để nhà vua vừa trị quốc vừa tu dưỡng. Năm sau vào tháng 9 âm lịch, ông thành lập các khu chùa Côn Sơn và Thanh Mai Sơn.
Trong sự nghiệp hành đạo của mình, Pháp Loa đã xây, mở rộng 2 ngôi chùa lớn (Báo Ân và Quỳnh Lâm) và 5 bảo tháp, mở hơn 200 Tăng xá, hoá độ 15.000 Tăng Ni, in 1 bộ Đại Tạng Kinh, tạc 1.300 pho tượng Phật lớn nhỏ, 2 bộ tượng sơn mài và hàng trăm tượng bằng đất. Các đệ tử của ông cũng xây chùa tháp ở nhiều nơi; ví dụ, tu sĩ Trí Nhu xây tháp Linh Tế trên núi Dục Thúy (còn gọi là núi Non Nước – nay thuộc Ninh Bình) và tháp Hiền Diệu trên núi Tiên Long, nay thuộc huyện Hoa Lư Ninh Bình. Pháp Loa có hơn 3000 đệ tử xuất gia, nổi bật là Huyền Quang, Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Kim Sơn, Tuệ Chúc, Tuệ Nhiên, Hải Ấn, Tuệ Quán, Hoàng Tuế, Huyền Giác, Cảnh Trưng, Vô Sơn Ông (nguyên là Tư đồ Văn Huệ vương),... Trong số cư sĩ đắc pháp có nhiều quý tộc mà tiêu biểu là hai vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông.
Đầu năm 1330, Pháp Loa được một số quý tộc mời thăm An Lạc tàng viện, giảng lại hội thứ nhất và thứ hai trong kinh Hoa Nghiêm. Không lâu sau, ông lên Thăng Long chúc mừng thượng hoàng Trần Minh Tông dẹp được quân Ngưu Hống. Ngày 3 tháng 2 âm lịch, Pháp Loa trở về viện An Lạc, 2 ngày sau ông bị bệnh. Trong vòng 7-8 ngày tới bệnh tình trầm trọng hơn.
Sau cuộc đối thoại này, thiền sư Pháp Loa có phần bình phục. Ngày 13 tháng 2 âm lịch, ông trở về phương trượng viện Quỳnh Lâm, 6 ngày sau bệnh lại trở nặng. Ông bèn phó chúc áo cà sa và tâm kệ của Điều Ngự cho Huyền Quang. Các đệ tử khác như Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Vô Tế,... và nhiều người khác cũng vào phương trượng xin kệ và hỏi han, Pháp Loa cho kệ và "trả lời những câu hỏi của họ không biết mỏi mệt" (dẫn theo sách Tam Tổ Thực Lục). Ngày 1 tháng 3 âm lịch năm 1330, thượng hoàng Minh Tông đến thăm bệnh, nhưng không thấy thiền sư có triệu chứng sắp mất. Sau đó, thượng hoàng hai lần cho thái y đến chữa trị nhưng cũng đều rút ra kết luận tương tự. Đến đêm ngày 3 tháng 3 âm lịch (22 tháng 3 dương lịch), bệnh tình nguy kịch, Pháp Loa có cuộc đối thoại với Huyền Quang.
Các đệ tử vào phương trượng, hỏi vì sao các tổ đều làm kệ lâm chung mà thầy không có, Pháp Loa viết:
Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn
Na biên phong nguyệt cánh nhĩ khoan.
Muôn duyên cắt đứt, tấm thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm cõi mộng tàn.
Giã biệt! Xin đừng theo hỏi nữa,
Bên kia trăng gió mặc thênh thang.
Viết xong, ông ném bút, an nhiên viên tịch vào đúng giờ Tý, thọ 47 tuổi. Các đệ tử khâm liệm thiền sư vào quan tài, đến giờ Sửu rước lên chôn cất ở chùa Thanh Mai (núi Thanh Mai). Thượng hoàng Minh Tông sai trung sứ đến núi Thanh Mai để nghe thuật lại bài kệ thị tịch cùng những cuộc đối đáp của Pháp Loa lúc sắp mắt. Đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, thượng hoàng truy tặng Pháp Loa danh hiệu Tịnh Trí Tôn giả, cúng dường 10 lượng vàng cho việc xây tháp thờ Pháp Loa. Tháp này được đặt tên là Viên Thông. Thượng hoàng còn viết bài thơ viếng thiền sư, tựa là Đề chùa Thanh Mai viếng Pháp Loa tôn giả (Vãn Pháp Loa tôn giả đề Thanh Mai tự).
longtadinh
29-12-2023, 20:15
Thiền Sư Huyền Quang , 1254-1334, tên thật là Lý Tái Đạo là một thiền sư, nhà lãnh đạo Phật giáo ở Đại Việt thời Trần. Ông là người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Nhà ông ở phía Đông Nam Chùa Ngọc Hoàng. Thân phụ của ông là Lý Tuệ Tổ, khi đang trong tuổi đi học, thì giặc Chiêm Thành sang cướp phá Đại Việt, ông tòng quân và lập công trong chiến trận. Vì thế, vua Trần định cho làm quan, nhưng Lý Tuệ Tổ từ chối, trở về vui thú ruộng vườn, thảnh thơi ngày tháng, ham xem sách lạ, truyện kỳ. Thân mẫu của Thiền sư là Lê Thị Hay là người đức hạnh, kính thờ cha mẹ chồng hết mực hiếu thuận. Đến 30 tuổi mà chưa có con trai, bà thường đến chùa Ngọc Hoàng cầu tự. Ngôi chùa này có tiếng linh thiêng, cầu cúng điều gì đều được ứng nghiệm. Sau khi cầu tự thì Thiền sư Huyền Quang ứng sinh. Thiền sư thủa nhỏ tướng mạo khôi ngôi, có chí khí của một bậc trác việt, cha mẹ hết lòng yêu thương dạy cho học chữ. Huyền Quang học một biết mười, có tài của Nhan tử Á Thánh Học giỏi. Năm 20 tuổi, Huyền Quang thi Hương đỗ, năm sau đỗ đầu khoa thi Hội. Sau khi thi đỗ, Huyền Quang được sung vào Viện Nội hàn. Trong khi làm quan trong triều, ông từng phụng mệnh tiếp sứ giả phương Bắc, bởi vì Huyền Quang là người thông thạo thư tịch, trích dẫn kinh nghĩa và ứng đối mau lẹ như nước chảy. Huyền Quang làm quan vào khoảng 20 năm. Đến năm 1305, khi đã 51 tuổi, ông mới xuất gia, theo học Thiền sư Bão Phác ở chùa Lê Vĩnh.
longtadinh
29-12-2023, 20:28
Năm 1306, Pháp Loa được lập làm giảng sư ở chùa Siêu Loại. Nhân sự kiện này, Bão Phác có đem Huyền Quang đến dự lễ và mới gặp Pháp Loa ở đây. Cũng tại đây, Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông gặp lại Huyền Quang trong hình thái tăng sĩ rất mừng biết Huyền Quang là một văn tài, liền đề nghị Bão Phác để Huyền Quang ở lại phụ tá với mình. Từ đó, Huyền Quang tùy tùng Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông trong cuộc sống hành đạo. Huyền Quang chỉ được đi theo học đạo và phụ tá cho Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông trong khoảng 2 năm, bởi vì cuối năm 1308, thì Ngài viên tịch trên địa Ngọa Vân. Trong hai năm đi theo Đức Trần Nhân Tông, Đức Phật hoàng đã nhờ Huyền Quang soạn các bộ sách như: Chư phẩm kinh, Công văn tập, Thích khoa giáo. Tam tổ thực lục chép rằng, Đức Trần Nhân Tông rất bằng lòng với công việc trước thuật của Huyền Quang, khi đọc xong các bộ sách trên, Ngài ngự bút phê như sau: “Các kinh sách nhà Phật từng qua tay Huyền Quang, thì một chữ không thể thêm, một chữ cũng không thể bớt”. Đức Trần Nhân Tông liền sai thợ khắc in những sách ấy để truyền lại cho đời sau. Huyền Quang còn được Đức Trần Nhân Tông cho đi du ngoạn khắp nước thăm các danh lam thắng cảnh và thỉnh thoảng đăng đàn thuyết pháp. Đặc biệt, có lần Thiền sư Huyền Quang được Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông cho ngồi trên pháp tòa làm bằng trầm hương của mình để giảng Kinh. Từ sau năm 1308, khi Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông mất, Huyền Quang đi theo Thiền sư Pháp Loa, làm đồ đệ gần gũi của người thày trẻ hơn ông đến 30 tuổi. Ở đây, cần phải nói rằng, Thiền sư Pháp Loa (1284 -1330) là một bậc thiên tài hiếm có trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Ngài xuất gia tu hành năm 20 tuổi, ở vào thời kỳ Phật giáo hưng thịnh như đời Trần, mà chỉ 4 năm sau, đã được Đệ nhất tổ Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông lựa chọn “làm người trụ trì kế thế thế đời thứ hai của phái Trúc Lâm” (Tam tổ thực lục), thì thấy tài năng và trí tuệ của Pháp Loa xuất chúng đến chừng nào! Đi theo Pháp Loa học đạo một thời gian, Huyền Quang về trụ trì ở chùa Vân Yên, trên núi Yên Tử. Khâm phục sức học quảng bác và đức độ lớn lao của Huyền Quang, tăng ni theo về học đạo có đến hàng nghìn người. Chính trong thời gian trụ trì tại ngôi chùa nổi tiếng này, Huyền Quang đã sáng tác bài Vịnh Vân Yên tự phú (Phú vịnh chùa Vân Yên). Năm Quý Sửu (1313), vào ngày Rằm tháng Giêng, Huyền Quang về quê làng Vạn Tải để thăm cha mẹ. Bấy giờ, ông đã 60 tuổi, cha mẹ đã già yếu. Muốn được gần gũi song thân trong một thời gian, Huyền Quang liền lập một ngôi chùa ngay trong làng, sát phía tây của nhà cha mẹ, phía đông chùa Ngọc Hoàng, đặt tên là chùa Đại Bi, là lấy ý từ câu: “Đại từ đại bi Quán thế âm Bồ tát, cứu độ cha mẹ quy y đạo Phật”, nhân thế, chùa cũng mang tên Thiền sư.
longtadinh
31-12-2023, 22:22
Năm Quý Sửu (1313) Thiền sư về quê làng lập chùa, nhiều người ở kinh đô về phát tâm ủng hộ tài lực. Ngày khánh thành chùa, Thiền Sư Huyền Quang mở pháp hội lớn, mời chư tăng bốn phương về tham dự. Sách Tam tổ thực lục chép rằng: “Khi sư bắt đầu dựng chùa thì từ Thiên tử đến thứ dân ai cũng đóng góp công đức, tiền tài vàng bạc nhiều vô kể. Kinh quyển in xong, mở pháp hội lớn, khách thập phương tụ tập, chơi xem đến nghìn vạn người. Bảy ngày đêm hội mới tan. Sư lại đem của công đức phân phát cho tăng ni các đạo tràng và những người nghèo khổ rồi mở một tiệc yến nhỏ mời họ hàng làng xóm cùng bạn bè cố cựu và chia cho vàng lụa để tỏ tinh thần…”. Ngay chiều ngày hôm đó, Thiền Sư Huyền Quang khởi hành về chùa Vân Yên, núi Yên Tử, nơi Thiền sư chịu trách nhiệm trụ trì. Sách Tam tổ thực lục dành nhiều trang để kể chuyện hàm oan của Thiền sư Huyền Quang dính líu tới một cung nữ có tên là Điểm Bích. Sự việc này xảy ra hồi ông trụ trì chùa Vân Yên, có lẽ dưới triều Trần Minh Tông (1314 -1329). Sách Tam tổ thực lục cho biết, sau khi trụ trì chùa Vân Yên, Yên Tử một thời gian,Thiền Sư Huyền Quang về trụ trì ở chùa Thanh Mai (nguyên tên là chùa Hương Hảo ở xã Phụ Vệ, huyện Chí Linh, trấn Hải Dương) trong sáu năm, rồi về trụ trì chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. Người nối tiếp Huyền Quang trụ trì chùa Vân Yên là An Tâm quốc sư. Như trên vừa nói, Huyền Quang sau khi giao phận sự cho An Tâm đã về ở núi Thanh Mai và Côn Sơn. Tại các núi này vào năm 1329, Pháp Loa đã lập những cơ sở hoằng đạo cho giáo hội Trúc Lâm. Cuối đời, Huyền Quang trở về tu tại chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. Chùa này tục gọi là Chùa Hun, được lập ra từ đời Lý và được Pháp Loa mở mang, dựng các am Hồ Thiên, Chân Lạc để ở. Thiền Sư Huyền Quang đến đây, lại tiếp tục mở mang chùa cảnh, cho xây một tòa tháp có thể xoay được, gọi là “Cửu Phẩm Liên Hoa”. Tiếc rằng cho đến nay, tòa Cửu Phẩm Liên Hoa này đã bị thất truyền. Trong sách Bắc Ninh phong thổ tạp ký có nói rằng: Thiền Sư Huyền Quang đã đi thăm nhiều chùa, trong đó có chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp, Bắc Ninh. Tại đây, Thiền sư cũng đã dựng một đài Cửu Phẩm Liên Hoa và cho khắc in nhiều kinh điển. Tòa Cửu Phẩm Liên Hoa ở chùa Ninh Phúc là một cái tháp có thể xoay tròn được. Trong những dịp lễ lớn, tín đồ tới chùa tay xoay đài, miệng trì chú hay niệm Phật. Tháp xoay có 9 tầng và 8 mặt. Mỗi mặt của tầng dưới cùng, có chạm nổi hình ảnh sự tích Phật, trong đó có hình Cựu Lạc thế giới và Đức Phật A Di Đà. Tòa Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Tư Phúc ở Côn Sơn cũng do Thiền Sư dựng nên. Thiền sư Huyền Quang viên tịch ở Côn Sơn năm 1334. Nhưng ngày nay, ta không thể biết ông đã trụ trì bao nhiêu năm tại đây. Vì vậy, ta cũng không biết Thiền sư rời khỏi chùa Vân Yên năm nào và câu chuyện liên quan tới nàng Điểm Bích đã xảy ra vào năm nào. Thiền sư Huyền Quang mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), nhưng tin ông mất về tới làng Vạn Tải ngày 24. Vì vậy, dân làng Vạn Tải cho đến nay, vẫn lấy ngày 24 tháng Giêng là ngày Kỵ tổ. Vua Trần Minh Tông ban hiệu cho Thiền sư Huyền Quang là “Trúc Lâm Đệ Tam đại Tự Pháp Huyền Quang Tôn giả”. Nhà vua còn cúng dưỡng 10 lạng vàng để xây bảo tháp cho Huyền Quang tại phía sau chùa Tư Phúc, Côn Sơn. Vua cũng ban ruộng cho chùa để lo tổ chức Kỵ giỗ hằng năm cho Thiền sư, kể cả ruộng các nơi cúng dưỡng lên tới 150 mẫu 5 sào(14). Thiền sư Huyền Quang không chỉ là vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, mà ông còn là một nhà thơ lớn trên thi đàn dân tộc. Thơ của Thi sĩ Huyền Quang hiện còn lại 24 bài được bảo tồn trong Việt âm thi tập (1459) do Phan Phu Tiên và Chu Xa biên soạn vào đầu đời Lê sơ và Trích diễm thi tập (1497) do Hoàng Đức Lương biên soạn vào cuối đời Lê Thánh Tông. Đọc thơ Huyền Quang, chúng ta biết rất ít về tư tưởng Phật giáo của ông. Phần lớn những bài thơ của Huyền Quang còn lại đều dành cho thiên nhiên, đề mai, vịnh cúc
Ngày 23 tháng 01 năm Giáp Tuất (1334) thời vua Trần Hiến Tông, ông viên tịch, thọ 80 tuổi. Thượng hoàng Trần Minh Tông sắc thuỵ là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
longtadinh
31-12-2023, 22:29
Mạc Đĩnh Chi (1272- 1346), tên tự là Tiết Phu hiệu là Tích Am là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, Mạc Đĩnh Chi là người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, Hải Đông (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông sinh ra Mạc Hiển Đức, Hiển Đức sinh Hiển Tuấn, Hiển Tuấn sinh Đĩnh Kỳ. Mạc Đĩnh Kỳ sinh Mạc Đĩnh Chi. Mạc Đĩnh Chi thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí. Năm1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi Cống sĩ lấy 44 người đỗ tiến sĩ. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên; Bùi Mộ đỗ bảng nhãn, Trương Phóng đỗ thám hoa. Khi mới đỗ nhà vua chê ông xấu, Mạc Đĩnh Chi bèn làm bài phú Ngọc tỉnh liên (Sen trong giếng ngọc) để tự ví mình với sen. Trong bài phú có đoạn:
Há rằng trống rỗng bất tài
Thuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay.
Nếu ta giữ mực thẳng ngay.
Mưa sa gió táp xem nay cũng thường
Vua Trần Anh Tông xem rồi khen hay, thăng làm Thái học sinh dũng thủ, sung chức Nội thư gia. Nhờ thông minh, hiểu biết sâu rộng, ông nhiều lần được cử đi sứ sang Trung Quốc. Ngoài ra, ông còn được biết đến như là tổ tiên trực hệ của các đời Hoàng đế nhà Mạc, được Mạc Thái Tổ truy tôn Thụy là Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế .
Thời vua Trần Minh Tông, Mạc Đĩnh Chi càng được tin dùng hậu đãi. Ông là người liêm khiết, vua biết muốn thử ông, sai người đem 10 vạn quan tiền để trước cửa nhà ông. Sáng hôm sau Đĩnh Chi đem túi tiền lên triều, tâu nhà vua, Vua nói: "Không ai nhận tiền ấy, thì cho khanh lấy mà chi dùng". Ông đã từ chối và không nhận vì cho rằng người mất sẽ lo lắng , lúc này vua cho biết rằng chỉ thử lòng và trao cho Mạc Đĩnh Chi phần thường vì lòng chính trực.
Thời vua Trần Hiến Tông ông làm chức Nhập nội hành khiển, Lang trung hữu ty, chuyển sang làm Lang trung tả ty trải đến chức Tả bộc xạ ở hàng quan to.
Năm 1308 đời vua Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, mừng vua Nguyên Vũ Tông mới lên ngôi. Đó là lúc mới 20 năm sau chiến tranh chống quân Nguyên lần 3(1287-1288), sứ bộ bị nắn gân cốt rất mạnh. Tuy nhiên trong hoạt động bang giao ông đã tỏ rõ khí phách và tài năng của mình. Hoạt động và tài năng văn chương của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng.
longtadinh
31-12-2023, 22:30
Giai thoại đi sứ Mạc Đĩnh Chi
Tại cửa ảiThử thách văn chương đầu tiên là do trời mưa nên Sứ bộ đến cửa ải Pha Lũy (nay là ải Nam Quan) bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng ông, nên thử tài bằng câu đối:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
Nghĩa là: Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Ông đã đáp lại:
Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
Nghĩa là: Ra câu đối trước thì dễ, đối câu đối mới khó, xin tiên sinh đối trước.
Quan giữ ải phục tài, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ và tiếp đãi rất long trọng.
Buổi tiếp kiến đầu tiênKhi đến Đại Đô (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc), thấy Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, nên người Nguyên tỏ ý khinh thường. Trong buổi tiếp kiến đầu tiên người triều Nguyên đã ra câu đối:
Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố
Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng. Hàm ý là đại quốc đủ sức đốt cháy nước nhỏ.
Mạc Đĩnh Chi đã đối lại:
Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời. Hàm ý là nước nhỏ cũng có thể chống lại nước lớn trong hoàn cảnh thích hợp.
Vế đối này của Mạc Đĩnh Chi còn lấy điển tích Hậu Nghệ xạ nhật, hay Hậu Nghệ bắn rụng chín mặt trời làm gốc. Kim Ô, hay Quạ Mặt Trời, ban ngày bay lên tai hoạ nhân gian. Hậu Nghệ bèn lấy cung bắn rụng chín con, chỉ chừa lại một con duy nhất để chiếu sáng nhân gian.
longtadinh
31-12-2023, 22:44
Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (1281-1328) sinh ngày 29/01 (âm lịch) năm Thiệu Bảo thứ 3 (tức 19/02/1281). Ông là con trai thứ của Trần Nhân Tông, em của Thái tử Trần Thuyên, người sau là Trần Anh Tông. Ông là một nhân vật chính trị, quan viên và là hoàng thân của triều đại nhà Trần. Ông được đánh giá là một trong những nhân vật chính trị kiệt xuất của nhà Trần, trở thành trụ cột chính của triều đại này khi ông vừa là chú vừa là cha vợ của Trần Minh Tông. Cái chết của ông liên quan đến vấn đề kế vị, khi ông phản đối ý định của Minh Tông lúc muốn lập Trần Hiến Tông, và điều này dẫn đến việc ông bị kết tội phản nghịch và bị bỏ đói đến chết. Việc Ông qua đời để lại rất nhiều chỉ trích của các sử gia đối với Trần Minh Tông. Sử sách không ghi chép chính xác mẹ của ông là ai, có lẽ là chính thê của Nhân Tông, Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Hậu, hoặc em gái bà là Tuyên Từ Hoàng Hậu, cả hai đều là con gái Trần Hưng Đạo. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng ông rất được Nhân Tông và Anh Tông yêu mến.
Năm Trùng Hưng thứ 9, Quý tị (1293), Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Thuyên, sử gọi Trần Anh Tông. Mùa thu năm đó, khi mới 13 tuổi, ông đã được phong là Huệ Vũ đại vương .
Năm Hưng Long thứ 10 (1302), ông được phong chức Nhập nội Bình chương, tương đương Tể Tướng.
Năm Hưng Long thứ 20 (1312), Chiêm Thành lấn chiếm biên giới phía nam Đại Việt. Anh Tông ngự giá thân chinh, đến Phủ Lâm Bình, chia quân làm ba đường, sai Trần Quốc Chẩn theo đường núi, Trần Khánh Dư theo đường biển, đích thân vua tự dẫn sáu quân theo đường bộ; thủy bộ, cùng tiến đánh. Một lần quân Chiêm định tập kích ngự doanh, quân Trần Quốc Chẩn kịp thời cứu viện, phối hợp với Đoàn Nhữ Hài bao vây, bức hàng quân Chiêm Thành thắng lợi, quân Trần không tốn một mũi tên.
Năm Đại Khánh thứ 5 (1318,Trần Minh Tông sai ông cùng tướng quân Phạm Ngũ Lão tiếp tục đi đánh dẹp quân Chiêm Thành thu được thắng lợi lớn, giữ yên bờ cõi quốc gia.
Năm Đại Khánh thứ 7 (1320), mùa đông, Trần Anh Tông băng hà. Trước đây, khi Thái thượng hoàng Trần Anh Tông không khỏe, vua ngày đêm ở luôn ngoài cửa phòng ngủ của Thượng hoàng, mỗi khi vào thăm thì cùng đi với Quốc Chẩn. Vì Anh Tông tin cậy Quốc Chẩn hơn cả, định đem vua gửi gắm Quốc Chẩn, cho nên không cho vào thăm một mình, mà phải cùng đi với Quốc Chẩn, cốt để cho tình nghĩa vua tôi được khăng khít và không còn nghi ngại gì nữa.
Năm Đại Khánh thứ 10 (1323), con gái ông là Huy Thánh công chúa thành hôn với Trần Minh Tông, tức Lê Thánh Hoàng Hậu. Do có nhiều công lao với triều đình, hơn nữa lại là cha vợ của Minh Tông, vào năm Khai Thái thứ nhất (1324), Trần Quốc Chẩn được vua Trần phong chức: Nhập nội Quốc phụ Thượng tể – chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ Thượng Thư.
Sử cũ còn ghi nhận, Trần Quốc Chẩn không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận mà ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục.
Năm Khai Thái thứ 5 (1328), mùa xuân tháng 03, Quốc phụ thượng tể Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn bị giết.
Trần Minh Tông giữ ngôi được 15 năm (từ năm 1314 đến năm 1329) tuổi đã cao mà chưa lập được Thái Tử. Huệ Vũ vương Quốc Chẩn có ý đợi Lệ Thánh hoàng hậu sinh con trai thì mới lập. Lúc bấy giờ, Cương Đông Văn Hiến hầu (không rõ tên) là con của Tá thánh Thái sư Trần Nhật Duật muốn đánh đổ Hoàng hậu để lập Thái tử Vượng (sau là Trần Hiến Tông) mới đem của đút cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Nhạc 100 lạng vàng bảo Trần Nhạc vu cáo cho Quốc Chẩn có âm mưu làm phản. Hẳn là lúc bấy giờ Lệ Thánh Hoàng hậu đang mang thai nên phe Cương Đông Văn Hiến hầu và Trần Khắc Chung, đứng đằng sau là Lê Nguyên phi mẹ Hoàng tử Vượng mới lo lắng ra tay trước như vậy (rốt cuộc năm đó Hoàng hậu chỉ sinh ra một công chúa, tức Thiên Ninh Công chúa Trần Thị Ngọc Tha)
Trần Minh Tông tin cho là thật, liền ra lệnh bắt giam ngay Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc ở kinh sư rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến Hầu, lại cùng với mẹ thái tử Vượng Anh Tư nguyên phi Lê thị, đều là người Giáp Sơn(Kinh Môn) và đã từng làm thầy dạy Thái tử Vượng, liền trả lời: "Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Minh Tông truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực.
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.