youme
27-11-2013, 10:31
Chúng ta đang sống ở thế kỷ 21 là thế kỷ tâm linh, và hiện tại đang phải đối diện với một loạt các vấn đề về dân số, môi trường, tài nguyên,... Nhưng cuộc chiến đáng sợ nhất không phải là chiến tranh hạt nhân hay chiến tranh sinh học, mà là... chiến tranh tâm linh.
Vậy các cuộc chiến tranh tâm linh (chỉ xét ở Việt Nam mình) đã có từ bao giờ? Hôm nay mình sưu tầm được 1 bài viết rất ... dài ở 1 trang web, mình tóm tắt lại ở đây một vài thông tin hữu ích, mọi người tham khảo ạ.
CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
* Thơ của 1 ẩn sĩ
1/ Một vài truyện trấn yểm của Cao Biền:
Cao Biền (821-887) người Bột Hải, sau ngụ ở U Châu (ngoại thành Bắc Kinh ngày nay). Cha là Cao Nguyên, ông nội là Cao Sùng Văn (một danh tướng chỉ huy cấm quân dưới thời Đường Hiến Tông – Lý Thuần). Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ III, ông được Đường Hy Tông – Lý Huyền phong cho làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu từ năm Hàm Thông thứ bảy (866) đến năm Càn Phù thứ hai (875).
* Giao Châu là tên một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay.
Sau khi nhận chức và khảo sát địa lý bên Việt nam, Cao Biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn có thể tạo nên những bậc tài giỏi mà sự nghiệp khả dị ảnh hưởng cho Trung Quốc trong vấn đề Nam tiến biên soạn tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” này trình về vua Đường đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn. Truyền thuyết có nói trước khi yểm một kiểu đất nào Cao Biền thường phô đồng để kêu các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi sau đó mới ra yểm đất. Cũng theo truyền thuyết Cao Biền có yểm được một số ít đất lớn song cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh trong đó đáng kể nhất là “Tản viên sơn Thần” và “Tô lịch giang Thần” (núi Tản viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà nội ở Ô Cầu Giấy (gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch.
....
1.1 Sử dụng kiếm thần chặt đứt long mạch, quy mạch.
Cách chùa Hàm Long (thôn Thái Bảo, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) về phía nam – tây nam chừng hơn một cây số có núi Con Rùa, một núi nhỏ, dáng mai rùa, chu vi khoảng trên một nghìn mét. Núi Con Rùa có một chỗ sạt về phía Đông, mùa mưa thường rỉ ra nước màu gỉ sắt; cách núi Con Rùa chừng hai cây số về phía đông – đông nam là thôn Phương Lưu, cư dân quần tụ trên một đảo gò đất có dáng đầu rùa, người ta truyền tụng rằng “rùa bị kiếm thần của Cao Biền chém đứt đầu, đến nay máu vẫn chảy, đầu rùa bị văng ra đến tận thôn Phương Lưu”!
1.2. Sử dụng âm binh (phép “tản đậu thành binh”)
Ở núi Chè (Trà Sơn) Bắc Ninh, về phía làng Móng (xã Hoàn Sơn) cách đường số 1 mới chừng 1 km còn có nơi “quân Cao Biền dậy non”. Vì khi ra trận, ngoài quân lính bằng xương bằng thịt, Cao Biền còn dùng “âm binh” (lính từ cõi âm). Khi cần kíp ông ta chỉ rắc hạt đậu xuống đất, lấp cho kín (như kiểu ủ giá đỗ) rồi đọc mấy câu thần chú… Khi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính xung trận được ngay! Đó gọi là phép “tản đậu thành binh”. Mỗi hạt đậu, mỗi người lính; quân Cao Biền không những nhiều mà còn có một sức mạnh ma quái! (Có lẽ núi Chè xưa là nơi tuyển, luyện quân của Cao Biền).
1.3. Trấn yểm ở nhiều nơi...
Trong cuốn Việt Nam sử lược tác giả Trần Trọng Kim viết: “Sử chép, Cao Biền khi làm Thái thú ở quận Giao Châu nổi danh với tài phong thủy, thấy nước ta lắm huyệt đế vương, đã “cưỡi diều giấy đi trấn yểm khắp đó đây, làm hại mất nhiều long mạch””
- Hàm Rồng mất tích.
Những ai từng đi ngang qua xứ Thanh, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, nơi dòng sông Mã cắt ngang đường Quốc lộ 1A, hẳn đều biết đến địa danh Hàm Rồng (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa).
...Vị trí Hàm Rồng lâu nay vẫn được phỏng đoán là nơi cuối cùng của núi Đầu Rồng, dưới đôi mắt và mũi rồng, hướng về phía núi Ngọc (Hỏa Châu Phong).
- Truyền thuyết: Khi Cao Biền cưỡi diều giấy bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi. Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát. Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý. Thì lại càng ham thích. Rắp tâm làm đến cùng, Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vô cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tan. Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa.
**Một vài câu chuyện về vợ Cao Biền:
Theo thần phả ở Hà Đông, Cao Biền có một người vợ là Lã Thị Nga (Lã Đê nương) , theo ông từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành mà ra ở bên ngoài, khu vực ngày nay là thị xã Hà Đông. Bà đã truyền nghề dệt lụa cho dân ở đây và trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Sau khi Cao Biền về bắc, bà ở lại Tĩnh Hải quân. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Dân lập đền thờ bà ở bờ sông.
** Truyện “tản đậu thành binh” còn có một cách kể khác nữa, cách kể này đậm chất thôn dã, mang dáng vẻ “hài hước” khiến người kể và người nghe cùng thích thú: “Cao Biền có tham vọng làm Hoàng đế Trung Hoa: Ông ta xây dựng một lực lượng quân đội mạnh bằng cách “ủ giá đỗ thành quân”! Buồn cho ông! Bà vợ thấy ông cứ thì thà thì thụt, giấu giấu giếm giếm; sốt ruột quá, nhân lúc ông “bận công vụ” lén mở ra xem… Thế là cả một đội quân hàng ức, vạn tên lính của Cao Biền hùng dũng bước ra… Nhưng vì “dậy non” nên chỉ một lát sau chúng lăn đùng ra chết sạch!”
2/ Mã Viện trấn yểm
Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.
- Lịch sử ghi chép: Vào năm 40 sau công nguyên (SCN), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.
Năm 42 SCN Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.
Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ, Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê.
2.1 Trụ Ðồng Mã Viện.
Mã Viện dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”...
...“Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt” - đây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”.
..Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử.
Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy: Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)
2.2 KIỂN THÀNH.
Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.
.....
Nguồn: http://diendan.lyso.vn/viewtopic.php?f=32&t=6554
Vậy các cuộc chiến tranh tâm linh (chỉ xét ở Việt Nam mình) đã có từ bao giờ? Hôm nay mình sưu tầm được 1 bài viết rất ... dài ở 1 trang web, mình tóm tắt lại ở đây một vài thông tin hữu ích, mọi người tham khảo ạ.
CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
* Thơ của 1 ẩn sĩ
1/ Một vài truyện trấn yểm của Cao Biền:
Cao Biền (821-887) người Bột Hải, sau ngụ ở U Châu (ngoại thành Bắc Kinh ngày nay). Cha là Cao Nguyên, ông nội là Cao Sùng Văn (một danh tướng chỉ huy cấm quân dưới thời Đường Hiến Tông – Lý Thuần). Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ III, ông được Đường Hy Tông – Lý Huyền phong cho làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu từ năm Hàm Thông thứ bảy (866) đến năm Càn Phù thứ hai (875).
* Giao Châu là tên một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay.
Sau khi nhận chức và khảo sát địa lý bên Việt nam, Cao Biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn có thể tạo nên những bậc tài giỏi mà sự nghiệp khả dị ảnh hưởng cho Trung Quốc trong vấn đề Nam tiến biên soạn tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” này trình về vua Đường đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn. Truyền thuyết có nói trước khi yểm một kiểu đất nào Cao Biền thường phô đồng để kêu các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi sau đó mới ra yểm đất. Cũng theo truyền thuyết Cao Biền có yểm được một số ít đất lớn song cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh trong đó đáng kể nhất là “Tản viên sơn Thần” và “Tô lịch giang Thần” (núi Tản viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà nội ở Ô Cầu Giấy (gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch.
....
1.1 Sử dụng kiếm thần chặt đứt long mạch, quy mạch.
Cách chùa Hàm Long (thôn Thái Bảo, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) về phía nam – tây nam chừng hơn một cây số có núi Con Rùa, một núi nhỏ, dáng mai rùa, chu vi khoảng trên một nghìn mét. Núi Con Rùa có một chỗ sạt về phía Đông, mùa mưa thường rỉ ra nước màu gỉ sắt; cách núi Con Rùa chừng hai cây số về phía đông – đông nam là thôn Phương Lưu, cư dân quần tụ trên một đảo gò đất có dáng đầu rùa, người ta truyền tụng rằng “rùa bị kiếm thần của Cao Biền chém đứt đầu, đến nay máu vẫn chảy, đầu rùa bị văng ra đến tận thôn Phương Lưu”!
1.2. Sử dụng âm binh (phép “tản đậu thành binh”)
Ở núi Chè (Trà Sơn) Bắc Ninh, về phía làng Móng (xã Hoàn Sơn) cách đường số 1 mới chừng 1 km còn có nơi “quân Cao Biền dậy non”. Vì khi ra trận, ngoài quân lính bằng xương bằng thịt, Cao Biền còn dùng “âm binh” (lính từ cõi âm). Khi cần kíp ông ta chỉ rắc hạt đậu xuống đất, lấp cho kín (như kiểu ủ giá đỗ) rồi đọc mấy câu thần chú… Khi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính xung trận được ngay! Đó gọi là phép “tản đậu thành binh”. Mỗi hạt đậu, mỗi người lính; quân Cao Biền không những nhiều mà còn có một sức mạnh ma quái! (Có lẽ núi Chè xưa là nơi tuyển, luyện quân của Cao Biền).
1.3. Trấn yểm ở nhiều nơi...
Trong cuốn Việt Nam sử lược tác giả Trần Trọng Kim viết: “Sử chép, Cao Biền khi làm Thái thú ở quận Giao Châu nổi danh với tài phong thủy, thấy nước ta lắm huyệt đế vương, đã “cưỡi diều giấy đi trấn yểm khắp đó đây, làm hại mất nhiều long mạch””
- Hàm Rồng mất tích.
Những ai từng đi ngang qua xứ Thanh, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, nơi dòng sông Mã cắt ngang đường Quốc lộ 1A, hẳn đều biết đến địa danh Hàm Rồng (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa).
...Vị trí Hàm Rồng lâu nay vẫn được phỏng đoán là nơi cuối cùng của núi Đầu Rồng, dưới đôi mắt và mũi rồng, hướng về phía núi Ngọc (Hỏa Châu Phong).
- Truyền thuyết: Khi Cao Biền cưỡi diều giấy bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi. Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát. Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý. Thì lại càng ham thích. Rắp tâm làm đến cùng, Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vô cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tan. Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa.
**Một vài câu chuyện về vợ Cao Biền:
Theo thần phả ở Hà Đông, Cao Biền có một người vợ là Lã Thị Nga (Lã Đê nương) , theo ông từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành mà ra ở bên ngoài, khu vực ngày nay là thị xã Hà Đông. Bà đã truyền nghề dệt lụa cho dân ở đây và trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Sau khi Cao Biền về bắc, bà ở lại Tĩnh Hải quân. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Dân lập đền thờ bà ở bờ sông.
** Truyện “tản đậu thành binh” còn có một cách kể khác nữa, cách kể này đậm chất thôn dã, mang dáng vẻ “hài hước” khiến người kể và người nghe cùng thích thú: “Cao Biền có tham vọng làm Hoàng đế Trung Hoa: Ông ta xây dựng một lực lượng quân đội mạnh bằng cách “ủ giá đỗ thành quân”! Buồn cho ông! Bà vợ thấy ông cứ thì thà thì thụt, giấu giấu giếm giếm; sốt ruột quá, nhân lúc ông “bận công vụ” lén mở ra xem… Thế là cả một đội quân hàng ức, vạn tên lính của Cao Biền hùng dũng bước ra… Nhưng vì “dậy non” nên chỉ một lát sau chúng lăn đùng ra chết sạch!”
2/ Mã Viện trấn yểm
Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.
- Lịch sử ghi chép: Vào năm 40 sau công nguyên (SCN), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.
Năm 42 SCN Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.
Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ, Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê.
2.1 Trụ Ðồng Mã Viện.
Mã Viện dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”...
...“Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt” - đây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”.
..Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử.
Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy: Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)
2.2 KIỂN THÀNH.
Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.
.....
Nguồn: http://diendan.lyso.vn/viewtopic.php?f=32&t=6554