PDA

View Full Version : Hướng về Huyền Thiên Cổ Tự



Khánh Ly
03-05-2013, 15:30
Mảnh đất Chí Linh đã từ lâu không chỉ nổi tiếng bởi cảnh quan kỳ thú mà còn bởi vị trí hiểm yếu về mặt quân sự. Tiếng sóng Lục Đầu Giang còn vang vọng âm hưởng chiến thắng của quân dân thời nhà Trần. Không những thế, Chí Linh còn là Linh địa, nơi hội tụ cả năm mạch: Long, Ly, Quy, Phượng, Đỗ Quyên. Vì vậy, khí ở khu vực này rất tốt. Đoàn khí công của chúng tôi năm nào cũng được Thầy NQT đưa về Linh địa để chữa bệnh, luyện tập.
Trong chuyến đi Bát Cổ lần này, do có nhiều người già và trẻ nhỏ nên chúng tôi không có điều kiện vào Bát Cổ thứ tư: Huyền Thiên cổ tự – tức Chùa Huyền Thiên hay còn gọi là Vân Tiên cổ động. Đây là nơi Tam Tổ Trúc Lâm đã tu luyện, hành đạo. Bài viết này tôi đã tổng hợp và tham khảo từ các bài viết của Thầy NQT và các nguồn tài liệu khác với mong muốn giới thiệu về địa danh Bát Cổ thứ tư và ba vị Sư tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam.

1, Đệ nhất Sư Tổ: Trần Nhân Tông
Vị sư tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm chính là vua Trần Nhân Tông, người được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Lịch sử nhà Trần những trang sáng nhất chính là dưới thời vị vua này. Nước Đại Việt dưới thời vua Trần Nhân Tông đã hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông, một đế quốc bành trướng chưa từng có trong lịch sử lúc bấy giờ, làm chủ một vùng rộng lớn trải dài từ biển Đen đến tận Thái Bình Dương.
Hào khí Đông A đã tỏ rõ bởi sự đồng lòng quyết tâm đánh giặc của quân dân, già trẻ tại hai hội nghị nổi tiếng trong lịch sử: Hội nghị tướng lĩnh ở bến Bình Than và hội nghị bô lão cả nước ở Diên Hồng. Có thể nói, chưa bao giờ tinh thần đánh giặc nước Việt phát triển mạnh như dưới thời vua Trần Nhân Tông. Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, là thắng lợi tiêu biểu nhất trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông với những dấu tích cọc vẫn còn lưu lại trên sông tới ngày nay.
Trần Nhân Tông cũng nổi tiếng là người rất thương dân, trân trọng sự đóng góp to lớn của tướng sỹ, quân dân trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Ngài còn là một nhà văn xuất sắc với bài phú “Cư trần lạc đạo” mở đầu cho các tác phẩm văn chương quốc ngữ của thời đại. Năm 35 tuổi Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, chỉ dạy 6 năm, sau đó Ngài xuất gia tu ở núi Yên Tử. Ngài đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những miếu thờ thần không chính đáng, dạy họ tu hành thập thiện. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Ngài sáng lập đã để lại dấu ấn đặc sắc nhất trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Với chủ trương “Cư trần mà lạc Đạo”, một quan điểm tôn giáo sâu sắc và rất tiến bộ “Đời - Đạo song tu”. Tu luyện là để làm cho cuộc sống trần tục tốt đẹp hơn lên. “Phật tại Tâm trung”, “Đạo Phật cấm sát sinh song giết giặc cứu dân không có gì trái đạo…, ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối, ở đâu tu cũng được lúc nào tu cũng được, tu thì lâu cạo đầu mấy chốc, thứ nhất tu tại gia thứ hai tu chợ thứ ba tu chùa.” (Trích “Ai là người lãnh đạo tâm linh Việt Nam” – Thầy NQT)
Năm Hưng Long thứ mười sáu (1308), Ngài viên tịch năm 51 tuổi ở am Ngọa Vân thuộc chùa Bảo Sái và di chúc cho Đệ tử thượng túc Pháp Loa làm lễ hỏa táng. Xá lị của Ngài được tôn thờ ở Đức Lăng, xây Huệ Quang Kim tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu – Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Trần Nhân Tông đã về cõi Niết Bàn, nhưng hình ảnh vị vua anh minh, người chiến sĩ, thi nhân, triết nhân, tinh hoa của Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam luôn là tấm gương sáng mãi cho đời sau. Vị Phật Việt Nam này được ca ngợi trong hai câu đối:
Dạy dân tu Thiền giáo, yêu đạo – yêu đời
Dẹp giặc độ chúng sinh, làm Vua – làm Phật
Sau khi về cõi nhập Niết Bàn, đệ nhất Sư tổ luôn đau đáu tìm truyền nhân cho bổn phái và cuối cùng Ngài đã tìm được. Tại Yên Tử ngày 30/3/2006, Ngài đã giao cho Thầy cuốn sách “Định Pháp Vô Minh” – bí quyết Không mà Có của thiền phái, trang đầu có bài thơ:

Thiên thu nay đã thỏa ước nguyền,
Gươm thiêng trao trọn với niềm tin.
“Định pháp vô minh” ta truyền lại,
Cho con giữ mãi một đức tin.

Hiện nay Sư tổ là người chủ trì việc “Hoằng dương Phật pháp” tại Việt Nam.

2, Đệ nhị Sư Tổ: Pháp Loa
Đệ nhị Sư tổ, môn đệ của Trần Nhân Tông tên thật là Đồng Kiên Cương, là người con thứ chín trong một gia đình ở làng Cửu La, phủ Nam Sách, Hải Dương. Ngài thiên tư dĩnh ngộ, miệng không nói lời ác, không thích ăn thịt cá. Khi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đi qua mạn sông Nam Sách, Ngài lễ bái xin xuất gia sau đó được Trần Nhân Tông gửi tới tham vấn ở Quỳnh Quán. Khi đã có sở đắc, Ngài trở về và được Điều Ngự cho thọ giới Tỳ kheo và Bồ Tát và đặt hiệu Pháp Loa, đứng đầu bảy tám người Thị giả. Điều Ngự trao cho Ngài y bát, viết tâm kệ và dặn phải khéo giữ gìn. Một năm sau, sau khi lễ mùng một tháng giêng xong, Điều Ngự giao cho Ngài kế thế trụ trì chùa Siêu Loại, làm chủ sơn môn Yên Tử, trở thành Đệ nhị Sư tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử. Tháng tư năm Hưng Long thứ mười chín (1311), sau khi Ngài giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại, Huyền Quang đã trình kiến giải và được Ngài chấp nhận. Về sau khi Ngài lâm bệnh nặng đã đem y bát và viết tâm kệ trao cho Huyền Quang. Năm 1330, Ngài viên tịch, thọ 46 tuổi, nhục thân Ngài được đệ tử nhập tháp tại Thanh Mai Sơn.

3, Đệ tam Sư Tổ: Huyền Quang
Đệ tam Sư Tổ tên thật là Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254), quê ở lộ Bắc Giang. Ngài sinh ra trong gia đình dòng dõi quan lại, có công dẹp giặc Chiêm Thành nhưng không thích công danh, từ chối nhận chức quan. Ngài từ nhỏ đã thông minh, ý chí lớn, biệt tài hiển Thánh. Năm 1274 đời vua Trần Thánh Tông, Ngài thi đỗ Tiến sĩ khi mới hai mươi mốt tuổi, vào làm quan ở Hàn Lâm viện. Sau khi nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Ngài chợt tỉnh ngộ và xin từ chức để xuất gia tu hành. Năm Hưng Long thứ mười ba (1305), Ngài xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm Thị giả của Trần Nhân Tông và được Điều Ngự đặt pháp hiệu là Huyền Quang. Sau khi Điều Ngự viên tịch, Ngài theo hầu Pháp Loa theo phó chúc của Đệ nhất Sư Tổ và trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Năm Đại Khánh thứ tư (1317), Tổ Pháp Loa truyền y bát và giao tâm kệ cho Ngài. Sau khi Đệ nhị sư tổ viên tịch, Thiền Sư Huyền Quang trở thành vị Sư tổ thứ ba kế thừa Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Do Ngài đã tuổi cao nên ủy thác mọi việc cho Quốc Sư An Tâm và trở về trụ trì Côn Sơn Tự sau sáu năm trụ trì ở Thanh Mai Sơn. Năm Giáp Tuất (1334), Ngài viên tịch tại Côn Sơn và được Vua Trần Minh Tông sắc thuỵ là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Thiền sư Huyền Quang là một học giả uyên thâm, Ngài đã nhiều lần tặng thơ cho Thầy. Tại Yên Tử (30/3/2006), sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Đệ tam Sư tổ đã tặng cho Thầy một bài thơ với những lẽ cao siêu của Thiền Phái:

Đời đạo song tu mấy kiếp người,
Gieo niềm hạnh phúc đã bao nơi.
Vui mà hành thiện,tâm con thiện,
Buồn mà hành thiện,con thiện tâm.

Khi Ngài thấy học trò chăm chỉ, thành đạt, Ngài đã tặng Thầy bài thơ:

HUYỀN huyền,ảo ảo một cõi trần,
QUANG minh chiếu rọi khắp muôn dân.
SƯ tăng thiền định,tâm hướng Phật,
TỔ tông truyền dạy được mấy nhân.

Đầu tháng 9 năm 2011, Thầy NQT dẫn các học trò về Yên Tử thực hiện nhiệm vụ của các đệ tử Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam: Xây Trúc Lâm Bảo Tháp và luyện Trúc Lâm Bảo Kiếm. Nhân dịp này, Sư Tổ Huyền Quang đã tặng các đệ tử bài thơ:

Yên Tử đã linh lại thêm linh
Phật kỳ soi rọi khắp chúng sinh
Các con đồng lòng xây bảo tháp
Thiền phái từ nay sẽ hưng vinh.

Sau chuyến đi, đầu tháng 10 năm 2011, một bạn đọc trên diễn đàn nằm mơ thấy một vị sư già đọc cho nghe một bài thơ:

Quốc thái dân an đạo viên thành
Sư tăng chúng đẳng tuệ minh anh
An nhiên tự tại nơi vườn tháp
Tâm rộng mở soi sáng Nguyệt quang.

Đọc bốn chữ đầu của bốn câu thơ trên từ trên xuống là: Quốc Sư An Tâm, đó chính là Pháp danh của vị sư đã được Đệ tam Sư Tổ ủy thác công việc của Thiền phái.
Thầy đã làm một bài thơ để đối lại bài thơ trên như sau:

Tâm vì dân nước nên đạo viên thành
Tuệ hướng chúng sinh thầy trò chẳng ngại
Nguyệt linh linh... cùng hưng vinh thiền phái
Nhật linh linh...để quang đại Trúc lâm

Đọc bốn chữ đầu của bốn câu thơ trên từ dưới lên là: Nhật Nguyệt Tuệ Tâm, đó chính là Pháp danh của Thầy NQT.

Có thể nói, Thiền phái Trúc lâm Yên Tử là một phái của đạo Phật tại Việt Nam, có qui mô sâu rộng và ảnh hưởng mãi mãi đến tư duy tâm linh của dân tộc. Bởi vậy, Thầy NQT đã có những vần thơ về Huyền Thiên Cổ Tự, nơi mà Tam tổ Trúc lâm đã tu luyện rằng:

Cổ tự Huyền Thiên, thông vẫn xanh,
Chênh vênh sườn núi, điểu nghe kinh.
Lan xa, tiếng mõ khua rừng vắng,
Hay lòng Tam tổ độ chúng sinh.


Chuyến đi Bát Cổ kết thúc, mỗi chúng tôi đã học thêm được rất nhiều điều về lịch sử dân tộc, về tâm linh và hiểu thêm về con đường mà Thầy chúng tôi đã trải qua. Nhờ đó, chúng tôi càng thêm tự hào vì được làm học trò, dưới sự chỉ bảo dạy dỗ của Thầy tôi để chấn hưng Thiền phái Trúc Lâm. Tôi hi vọng lần sau chúng tôi sẽ được theo Thầy về chùa Huyền Thiên để có nhiều kiến thức hơn về địa danh Bát Cổ này.