Tieutrucxinh
17-02-2013, 22:09
“Mẹ đã về” là bài thơ được Thầy viết dành tặng riêng cho Phật Bà. Trong quá trình tu luyện của Thầy, Phật Bà là người được Thầy nhắc đến nhiều nhất. Thầy luôn luôn coi Phật Bà như mẹ của mình. Không những thế, những ký ức của Thầy về Phật Bà còn nhiều hơn cả ký ức đối với mẹ ruột. Thầy đã kể với chúng tôi trong những kiếp mà Thầy nhận biết được thì Phật Bà luôn luôn là người dậy bảo, độ trì, giúp đỡ Thầy. Ở những kiếp đó, khi Thầy chết, đã nhiều lần Phật Bà xuất hiện và hồi sinh (phần linh) cho Thầy sống trở lại. Bài thơ “Mẹ đã về” chính là câu chuyện về 4 kiếp như thế, được viết với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn đối với người mẹ đặc biệt của Thầy, đó chính là Phật Bà.
Thời gian trước đây Thầy bị bệnh rất nặng, một nửa người bên trái luôn bị lạnh, đến mức mùa hè bên trái thì đắp chăn, bên phải thì bật quạt… Có một lần ngồi thiền, Thầy đã phát hiện ra nửa người bên trái của Thầy bị ruỗng ra, trong đó có rất nhiều dòi, bọ đục khoét. Thầy đã dùng nhiều biện pháp để bắt nhưng mà chưa hết… Một hôm đang ngồi với 2 học trò ở nhà, có 1 học trò nói: “Ơ chú ơi, trước đây chú là lính, chú đang nằm chết ở trong 1 cánh rừng, nửa người bên trái ngập dưới bùn đất, nửa đó thối rữa ra rồi, nhiều dòi bọ lắm, xung quanh chú còn nhiều xác lính khác bị chết”. Lúc đó, Thầy nghĩ đến Phật Bà, và khấn mời Phật Bà về, thì thấy Phật Bà xuất hiện, Phật Bà đã hồi sinh cho cái xác ấy. Xác này đứng lên và chắc là đói quá, chạy vội vào rừng tìm cái ăn. Cô học trò lại nói: “Ơ chú ơi, chú đang bẻ chuối xanh để ăn”. Một lúc sau thấy Thái Thượng Lão Quân về (Lão Tử - Huyền Đô cung), cụ vẫy Thầy đi theo cụ… Vì vậy mới có những câu thơ:
Đã một lần con là chiến sĩ,
Chết trong rừng thối rữa nửa thân mình.
Mẹ đã về con lại đươc hồi sinh,
Và Lão Tử - Huyền Đô cung đã đến.
Người dẫn con đi về nơi tiên cảnh,
Học đạo, học văn, học võ nơi Thầy.
Cùng bạn bè tu luyện đêm ngày,
Con đã lớn, đã khôn từ nơi ấy.
Một ngày kia con trở về hạ giới.
Có một lần khác khi ngồi với học trò, Thầy lại nhìn thấy mình chết vùi trong tuyết lạnh (vì ở kiếp này Thầy sinh ra ở một nước xứ lạnh) và lại thấy Phật Bà về lôi xác Thầy ra khỏi đống tuyết ấy rồi bàn tay Phật Bà cầm một viên ngọc xoa khắp lên người Thầy, một lúc sau thì Thầy tỉnh lại. Sau này Thầy được biết viên ngọc mà Phật Bà cầm lúc ấy gọi là “Hỏa Linh Ngọc” (khi xoa vào có tác dụng làm nóng cơ thể). Những hình ảnh, ký ức ấy được ghi lại bằng những vần thơ:
Lần thứ hai con chết vùi, tuyết lạnh,
Nửa thân người ngập dưới giá băng.
Mẹ đã về con lại được hồi sinh,
Hoả Linh Ngọc xoa khắp thân mình
Bàn tay ấm như bình minh chiếu rọi.
Khi tỉnh dậy lời đầu tiên con gọi,
Phật Bà ơi, con sống lại rồi!
Kể từ nay con mãi mãi theo Người,
Để được học Từ bi - Trí huệ.
Ở một kiếp khác của Thầy, Thầy chính là Danh tướng Trần Quang Diệu của Triều đại Tây Sơn. Thầy kể, một lần Thầy ngồi với một người bạn cùng học khí công, người này nhìn tương đối tốt, Thầy đã chắp tay mời bản nguyên thần của mình về. Có 1 người xuất hiện, người bạn của Thầy hỏi thì người đó nói tên là Trần Quang Diệu. Sau đó, người bạn của Thầy lại nói ngay: Ông ấy nhập vào người anh rồi. Trong rất nhiều lần ngồi thiền của Thầy, những ký ức về Triều đại Tây Sơn, về Trần Quang Diệu, về Hoàng đế Quang Trung… đã nhiều lần xuất hiện. Trong đó, ký ức rõ nhất đối với Thầy ở kiếp này chính là cái chết của Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu bị giặc bắt, chúng đã chém ông, treo đầu lên cổng thành, còn thân người thì vứt ở bên dưới. Không biết cái đầu này đã được treo mấy ngày nhưng đã có bầy quạ đến rỉa. Trong khi đó, bọn lính canh gác ở phía dưới thì đứng nhìn và cười hô hố với nhau. Nhìn thấy hình ảnh ấy, Thầy đã cầu xin Phật Bà, Phật Bà lại xuất hiện, Người đã chắp đầu lại cho Trần Quang Diệu và hồi sinh cho ông. Và chúng ta hiểu rõ hơn câu chuyện ấy khi đọc những vần thơ:
Khi đất nước gặp cơn binh lửa,
Con trở về theo Nguyễn Huệ - Quang Trung.
Lần thứ ba con chết thảm thương:
Đầu bị chặt, treo cổng thành gió hú,
Lũ giặc ác nhìn con cười vui thú,
Bầy quạ đen bu đến rỉa đầu con.
Thân mất đầu chưa hết nợ nước non…
Trong các tài liệu lịch sử để lại thì trước khi Hoàng Đế Quang Trung chết, thì Thái Phó Trần Quang Diệu là một trong hai người được gọi để căn dặn những công việc về sau:
Vẫn còn đây lời Hoàng đế Quang Trung,
Khi giã biệt, Người dặn con vẫn nhớ:
“Ta ra đi chưa xong nhiệm vụ,
Còn các ngươi, liệu có hoàn thành?
Dù mai đây có gặp việc chẳng lành
Nhớ ghi dạ để kiếp sau làm tiếp!”
Chính vì vậy con không thể chết,
Lời cầu xin thấu đến cao xanh.
Mẹ đã về, con lại được hồi sinh,
Đầu đã chắp… và con sống lại.
Ở kiếp này, sau khi được hồi sinh, Phật Bà đã đưa Thầy về Nam Hải để tu luyện (nơi Phật Bà ở; Phật Bà còn có tên là Nam Hải Bồ Tát). Trong cuộc kháng chiến chống tà của Thầy, đã nhiều lần Thầy phải chiến đấu với Hố đen, Thái Thượng Lão Quân đã tặng Thầy “Thiên Vương Kiếm” và dạy cách đánh Hố đen: Muốn đánh vào những hố đen thì cách đánh như kiểu gọt khoai tây, bóc từng lớp ra rồi tiêu diệt… Ngoài ra Thầy cũng đã phải đánh nhau với rất nhiều Ma Vương và các Đạo sĩ xấu tu luyện theo con đường tà đạo.
Mẹ dẫn con đi, về nơi Nam Hải
Tại cửa Thiền con tiếp tục luyện tu…
Thế giới vô minh càng thêm vẻ âm u,
Thời mạt vận cũng là thời ma quỷ.
Hố đen đó ngày đêm sinh sự,
Thêm Ma Vương, Đạo sĩ tung hoành.
Bao khổ đau đổ xuống dân lành,
Nước đã nghèo, còn liên tiếp chiến tranh,
Là chiến sĩ không thể đành đứng ngó.
Và ở kiếp này, Thầy đã được sinh ra vào mùa hè năm 1951 và mãi 50 năm sau, năm 2001, Thầy mới bắt đầu luyện tập khí công, tìm thấy con đường đi của mình:
Vào buổi sáng mùa hè năm đó,
Con chào đời với tiếng khóc u ơ...
Bố Mẹ nuôi con khôn lớn từng giờ,
Nửa thế kỷ lần mò trong bể khổ.
Có một lần ngồi thiền, Thầy nhìn thấy Hoàng Đế Quang Trung về, người không nói gì cả và rút kiếm ra, chấm vào vai Thầy 3 cái. Thầy chợt nhận ra đây là cách giao nhiệm vụ cho một hiệp sỹ. Quả đúng như vậy, ngay sau đó, Cụ đã trao cho Thầy một Thanh kiếm lệnh và một Ấn ngọc có chữ Vương.
Và hôm đó con giật mình… Hoàng Đế,
Người đã về trao nhiệm vụ cho con.
Một lần khác khi Thầy đang nằm thiền, thấy một con voi trắng đi xuyên qua tường, Thầy giật mình sợ nó dẫm phải, nhưng không, nó đứng lại bên cạnh Thầy, thò vòi xuống quắp Thầy đặt lên lưng và đi mất. Sau này hỏi ra, Thầy mới biết Bạch Tượng đã đưa Thầy về đất Quy Nhơn để tu luyện.
Bạch tượng đưa con về đất Quy Nhơn,
Kể từ đó con luyện rèn chăm chỉ,
Hạnh phúc thay ngoài nơi Vô thỷ,
Ánh sáng vàng chiếu rọi tâm con.
Trong quá trình tu luyện, Phật Bà luôn luôn dõi theo Thầy để dẫn dắt, dạy bảo. Có một lần cùng với một học trò trên đường từ Phú Thọ về Hà Nội, khi đi đến Phúc Yên, Thầy nhận được thông tin phải về Chùa Non Nước ngay (ngôi chùa ở cạnh Đền Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội). Khi về, đứng trước tượng Phật Tổ Thích Ca, Thầy thấy mình gánh 2 chiếc đẫy vải, ở trong chứa đầy kinh sách. Phật Tổ cười, chỉ vào hình ảnh ấy rồi nói: Việc lấy kinh đã hoàn thiện, bây giờ con có nhiệm vụ đi giảng đạo:
Mẹ đã về, đưa lối dẫn đường,
Để con tới được trời Tây Trúc.
Gánh nặng sách Kinh đem về trần tục,
Giúp đỡ mọi người gạn đục, khơi trong.
Có 1 lần, khi ngồi thiền tại nhà cô Tâm (một trong những học trò của Thầy) thuộc Thôn Tiền, Dịch Vọng, Cầu Giấy, Thầy nghe cô Tâm kể những người khác đã nói xấu sau lưng Thầy rất nhiều, Thầy đã rất bực mình và cáu ầm lên. Đúng lúc đó, Phật Bà về đứng trên đầu Thầy, thả xuống một tờ giấy, trên đó có viết 4 chữ nho, xong Phật Bà đi ngay. Thầy phải mời một người khác trong không gian về dịch hộ, người đó nói, 4 chữ ấy là “Phi nhẫn bất thành”:
“Phi nhẫn bất thành” lời Mẹ dạy con,
Con ân hận chưa làm trọn vẹn.
Nhưng con tin, niềm tin vững chắc,
Vào con đường chính đạo con đi!
Những câu chuyện, ký ức gắn liền với quá trình tu luyện của Thầy được viết lại bằng thơ thật sinh động. Trên con đường Thầy đã đi, sự dậy bảo, cứu độ và dìu dắt của Phật Bà không thể nào kể hết. Câu thơ “Mẹ đã về, con lại được hồi sinh” đã được lặp lại 3 lần trong 3 khổ thơ viết về 3 kiếp của Thầy như khẳng định thêm điều đó. Hình ảnh Phật Bà Quan Âm trong lòng mỗi chúng ta chắc hẳn đã rất tuyệt vời, và với riêng Thầy, tình cảm ấy phải đặc biệt đến thế nào và đúng chỉ có thể là hình ảnh của Người mẹ. Một người mẹ luôn xuất hiện khi cần, luôn dẫn đường chỉ lối, bảo ban dậy dỗ cho con đi đúng đường:
- “Mẹ dẫn con đi, về nơi Nam Hải.
Tại cửa Thiền con tiếp tục luyện tu…”
- “Mẹ đã về, đưa lối dẫn đường,
Để con tới được trời Tây Trúc…”
…
Bài thơ “Mẹ đã về” chính là tình cảm, lòng biết ơn vô hạn của Thầy đối với Phật Bà. Có thể nói, không có “Người mẹ tuyệt vời ấy” thì cũng không thể có được “Người con” như chúng ta đã biết của ngày hôm nay. Với tấm lòng, tình cảm đó của Thầy, con luôn tin “Chắc chắn cao xanh thấu mọi điều”…
Thời gian trước đây Thầy bị bệnh rất nặng, một nửa người bên trái luôn bị lạnh, đến mức mùa hè bên trái thì đắp chăn, bên phải thì bật quạt… Có một lần ngồi thiền, Thầy đã phát hiện ra nửa người bên trái của Thầy bị ruỗng ra, trong đó có rất nhiều dòi, bọ đục khoét. Thầy đã dùng nhiều biện pháp để bắt nhưng mà chưa hết… Một hôm đang ngồi với 2 học trò ở nhà, có 1 học trò nói: “Ơ chú ơi, trước đây chú là lính, chú đang nằm chết ở trong 1 cánh rừng, nửa người bên trái ngập dưới bùn đất, nửa đó thối rữa ra rồi, nhiều dòi bọ lắm, xung quanh chú còn nhiều xác lính khác bị chết”. Lúc đó, Thầy nghĩ đến Phật Bà, và khấn mời Phật Bà về, thì thấy Phật Bà xuất hiện, Phật Bà đã hồi sinh cho cái xác ấy. Xác này đứng lên và chắc là đói quá, chạy vội vào rừng tìm cái ăn. Cô học trò lại nói: “Ơ chú ơi, chú đang bẻ chuối xanh để ăn”. Một lúc sau thấy Thái Thượng Lão Quân về (Lão Tử - Huyền Đô cung), cụ vẫy Thầy đi theo cụ… Vì vậy mới có những câu thơ:
Đã một lần con là chiến sĩ,
Chết trong rừng thối rữa nửa thân mình.
Mẹ đã về con lại đươc hồi sinh,
Và Lão Tử - Huyền Đô cung đã đến.
Người dẫn con đi về nơi tiên cảnh,
Học đạo, học văn, học võ nơi Thầy.
Cùng bạn bè tu luyện đêm ngày,
Con đã lớn, đã khôn từ nơi ấy.
Một ngày kia con trở về hạ giới.
Có một lần khác khi ngồi với học trò, Thầy lại nhìn thấy mình chết vùi trong tuyết lạnh (vì ở kiếp này Thầy sinh ra ở một nước xứ lạnh) và lại thấy Phật Bà về lôi xác Thầy ra khỏi đống tuyết ấy rồi bàn tay Phật Bà cầm một viên ngọc xoa khắp lên người Thầy, một lúc sau thì Thầy tỉnh lại. Sau này Thầy được biết viên ngọc mà Phật Bà cầm lúc ấy gọi là “Hỏa Linh Ngọc” (khi xoa vào có tác dụng làm nóng cơ thể). Những hình ảnh, ký ức ấy được ghi lại bằng những vần thơ:
Lần thứ hai con chết vùi, tuyết lạnh,
Nửa thân người ngập dưới giá băng.
Mẹ đã về con lại được hồi sinh,
Hoả Linh Ngọc xoa khắp thân mình
Bàn tay ấm như bình minh chiếu rọi.
Khi tỉnh dậy lời đầu tiên con gọi,
Phật Bà ơi, con sống lại rồi!
Kể từ nay con mãi mãi theo Người,
Để được học Từ bi - Trí huệ.
Ở một kiếp khác của Thầy, Thầy chính là Danh tướng Trần Quang Diệu của Triều đại Tây Sơn. Thầy kể, một lần Thầy ngồi với một người bạn cùng học khí công, người này nhìn tương đối tốt, Thầy đã chắp tay mời bản nguyên thần của mình về. Có 1 người xuất hiện, người bạn của Thầy hỏi thì người đó nói tên là Trần Quang Diệu. Sau đó, người bạn của Thầy lại nói ngay: Ông ấy nhập vào người anh rồi. Trong rất nhiều lần ngồi thiền của Thầy, những ký ức về Triều đại Tây Sơn, về Trần Quang Diệu, về Hoàng đế Quang Trung… đã nhiều lần xuất hiện. Trong đó, ký ức rõ nhất đối với Thầy ở kiếp này chính là cái chết của Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu bị giặc bắt, chúng đã chém ông, treo đầu lên cổng thành, còn thân người thì vứt ở bên dưới. Không biết cái đầu này đã được treo mấy ngày nhưng đã có bầy quạ đến rỉa. Trong khi đó, bọn lính canh gác ở phía dưới thì đứng nhìn và cười hô hố với nhau. Nhìn thấy hình ảnh ấy, Thầy đã cầu xin Phật Bà, Phật Bà lại xuất hiện, Người đã chắp đầu lại cho Trần Quang Diệu và hồi sinh cho ông. Và chúng ta hiểu rõ hơn câu chuyện ấy khi đọc những vần thơ:
Khi đất nước gặp cơn binh lửa,
Con trở về theo Nguyễn Huệ - Quang Trung.
Lần thứ ba con chết thảm thương:
Đầu bị chặt, treo cổng thành gió hú,
Lũ giặc ác nhìn con cười vui thú,
Bầy quạ đen bu đến rỉa đầu con.
Thân mất đầu chưa hết nợ nước non…
Trong các tài liệu lịch sử để lại thì trước khi Hoàng Đế Quang Trung chết, thì Thái Phó Trần Quang Diệu là một trong hai người được gọi để căn dặn những công việc về sau:
Vẫn còn đây lời Hoàng đế Quang Trung,
Khi giã biệt, Người dặn con vẫn nhớ:
“Ta ra đi chưa xong nhiệm vụ,
Còn các ngươi, liệu có hoàn thành?
Dù mai đây có gặp việc chẳng lành
Nhớ ghi dạ để kiếp sau làm tiếp!”
Chính vì vậy con không thể chết,
Lời cầu xin thấu đến cao xanh.
Mẹ đã về, con lại được hồi sinh,
Đầu đã chắp… và con sống lại.
Ở kiếp này, sau khi được hồi sinh, Phật Bà đã đưa Thầy về Nam Hải để tu luyện (nơi Phật Bà ở; Phật Bà còn có tên là Nam Hải Bồ Tát). Trong cuộc kháng chiến chống tà của Thầy, đã nhiều lần Thầy phải chiến đấu với Hố đen, Thái Thượng Lão Quân đã tặng Thầy “Thiên Vương Kiếm” và dạy cách đánh Hố đen: Muốn đánh vào những hố đen thì cách đánh như kiểu gọt khoai tây, bóc từng lớp ra rồi tiêu diệt… Ngoài ra Thầy cũng đã phải đánh nhau với rất nhiều Ma Vương và các Đạo sĩ xấu tu luyện theo con đường tà đạo.
Mẹ dẫn con đi, về nơi Nam Hải
Tại cửa Thiền con tiếp tục luyện tu…
Thế giới vô minh càng thêm vẻ âm u,
Thời mạt vận cũng là thời ma quỷ.
Hố đen đó ngày đêm sinh sự,
Thêm Ma Vương, Đạo sĩ tung hoành.
Bao khổ đau đổ xuống dân lành,
Nước đã nghèo, còn liên tiếp chiến tranh,
Là chiến sĩ không thể đành đứng ngó.
Và ở kiếp này, Thầy đã được sinh ra vào mùa hè năm 1951 và mãi 50 năm sau, năm 2001, Thầy mới bắt đầu luyện tập khí công, tìm thấy con đường đi của mình:
Vào buổi sáng mùa hè năm đó,
Con chào đời với tiếng khóc u ơ...
Bố Mẹ nuôi con khôn lớn từng giờ,
Nửa thế kỷ lần mò trong bể khổ.
Có một lần ngồi thiền, Thầy nhìn thấy Hoàng Đế Quang Trung về, người không nói gì cả và rút kiếm ra, chấm vào vai Thầy 3 cái. Thầy chợt nhận ra đây là cách giao nhiệm vụ cho một hiệp sỹ. Quả đúng như vậy, ngay sau đó, Cụ đã trao cho Thầy một Thanh kiếm lệnh và một Ấn ngọc có chữ Vương.
Và hôm đó con giật mình… Hoàng Đế,
Người đã về trao nhiệm vụ cho con.
Một lần khác khi Thầy đang nằm thiền, thấy một con voi trắng đi xuyên qua tường, Thầy giật mình sợ nó dẫm phải, nhưng không, nó đứng lại bên cạnh Thầy, thò vòi xuống quắp Thầy đặt lên lưng và đi mất. Sau này hỏi ra, Thầy mới biết Bạch Tượng đã đưa Thầy về đất Quy Nhơn để tu luyện.
Bạch tượng đưa con về đất Quy Nhơn,
Kể từ đó con luyện rèn chăm chỉ,
Hạnh phúc thay ngoài nơi Vô thỷ,
Ánh sáng vàng chiếu rọi tâm con.
Trong quá trình tu luyện, Phật Bà luôn luôn dõi theo Thầy để dẫn dắt, dạy bảo. Có một lần cùng với một học trò trên đường từ Phú Thọ về Hà Nội, khi đi đến Phúc Yên, Thầy nhận được thông tin phải về Chùa Non Nước ngay (ngôi chùa ở cạnh Đền Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội). Khi về, đứng trước tượng Phật Tổ Thích Ca, Thầy thấy mình gánh 2 chiếc đẫy vải, ở trong chứa đầy kinh sách. Phật Tổ cười, chỉ vào hình ảnh ấy rồi nói: Việc lấy kinh đã hoàn thiện, bây giờ con có nhiệm vụ đi giảng đạo:
Mẹ đã về, đưa lối dẫn đường,
Để con tới được trời Tây Trúc.
Gánh nặng sách Kinh đem về trần tục,
Giúp đỡ mọi người gạn đục, khơi trong.
Có 1 lần, khi ngồi thiền tại nhà cô Tâm (một trong những học trò của Thầy) thuộc Thôn Tiền, Dịch Vọng, Cầu Giấy, Thầy nghe cô Tâm kể những người khác đã nói xấu sau lưng Thầy rất nhiều, Thầy đã rất bực mình và cáu ầm lên. Đúng lúc đó, Phật Bà về đứng trên đầu Thầy, thả xuống một tờ giấy, trên đó có viết 4 chữ nho, xong Phật Bà đi ngay. Thầy phải mời một người khác trong không gian về dịch hộ, người đó nói, 4 chữ ấy là “Phi nhẫn bất thành”:
“Phi nhẫn bất thành” lời Mẹ dạy con,
Con ân hận chưa làm trọn vẹn.
Nhưng con tin, niềm tin vững chắc,
Vào con đường chính đạo con đi!
Những câu chuyện, ký ức gắn liền với quá trình tu luyện của Thầy được viết lại bằng thơ thật sinh động. Trên con đường Thầy đã đi, sự dậy bảo, cứu độ và dìu dắt của Phật Bà không thể nào kể hết. Câu thơ “Mẹ đã về, con lại được hồi sinh” đã được lặp lại 3 lần trong 3 khổ thơ viết về 3 kiếp của Thầy như khẳng định thêm điều đó. Hình ảnh Phật Bà Quan Âm trong lòng mỗi chúng ta chắc hẳn đã rất tuyệt vời, và với riêng Thầy, tình cảm ấy phải đặc biệt đến thế nào và đúng chỉ có thể là hình ảnh của Người mẹ. Một người mẹ luôn xuất hiện khi cần, luôn dẫn đường chỉ lối, bảo ban dậy dỗ cho con đi đúng đường:
- “Mẹ dẫn con đi, về nơi Nam Hải.
Tại cửa Thiền con tiếp tục luyện tu…”
- “Mẹ đã về, đưa lối dẫn đường,
Để con tới được trời Tây Trúc…”
…
Bài thơ “Mẹ đã về” chính là tình cảm, lòng biết ơn vô hạn của Thầy đối với Phật Bà. Có thể nói, không có “Người mẹ tuyệt vời ấy” thì cũng không thể có được “Người con” như chúng ta đã biết của ngày hôm nay. Với tấm lòng, tình cảm đó của Thầy, con luôn tin “Chắc chắn cao xanh thấu mọi điều”…