View Full Version : Viết Về Bát Cổ
NguyetQuangTu
25-11-2010, 09:36
Tôi có vài ý kiến với các bạn như sau :
-Những người tham gia vào mục “ VIẾT VỀ BÁT CÔ ” nên đi theo hướng như thế này :
1/ Tùy điều kiện của mình nếu tìm hiểu thêm được thông tin về ai thì viết về người đó.Không nhất thiết phải viết dài,không nhất thiết phải tìm đủ thông tin về cả 8 vị Bát Cổ và 2 vị Bồ Tát, mà chỉ cần thông tin phong phú và chính xác.
2/ Nếu những thông tin đã được đăng rồi mà trùng hợp với thông tin mình biết thì thôi không đăng nữa.
3/ Những thông tin cần tìm hiểu là :
+ Thân thế sự nghiệp của mỗi vị Bát Cổ.
+ Sự tích các ngôi đền thờ Bát Cổ.
+ Giai thoại về BÁt Cổ.
- Sau khi tập hợp được nhiều thông tin về Bát Cổ thì chúng ta sẽ chỉnh sửa lại bài “ Ai là người lãnh đạo tâm linh Việt Nam” cho thật hoàn chỉnh.Sau khi chỉnh sửa xong thì tác giả bài viết này không phải là NQT nữa mà là “ những học trò của Bát Cổ ”.
- Ai biết nhiều thì viết nhiều,ai biết ít thì viết ít.Việc làm này có thể gọi là : Tìm đường về với Bát Cổ.BÁT CỔ
1/ Tinh phi Cổ Tháp.
Đây là đền thờ Bà chúa Sao sa Nguyễn Thị Duệ.
2/ Tiều ẩn Cổ Bích.
Đây là đền thờ Thầy Chu Văn An.
3/ Dược viên Cổ Lĩnh.
Đây là đền thờ Trần Hưng Đạo bên cạnh đó có một vườn thuốc mà trước kia Trần Hưng Đạo đã cho trồng .
4/ Huyền thiên Cổ Tự.
Đây là ngôi chùa mà trước đây Tam tổ trúc lâm đã tu luyện.
5/ Long động Cổ Trai.
Đây là đền thờ Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
6/ Thượng tể Cổ Trạch.
Đây là đền thờ Quốc phụ - Thượng tể Cổ trạch Trần Quốc Chẩn.
7/ Kim qui Cổ Loan.
Đây là đền thờ 5 anh em họ Vương,là 5 vị tướng dưới triều vua Lê Hoàn.
8/ Phao sơn Cổ Thành.
Đây là chùa Phao Sơn bên cạnh có một đền thờ Cao Lỗ Đại vương.
Giữa tháng 11/2004 Phật Bà lại bảo :
- Con đi Côn Sơn tìm Bát cổ,nhưng lần này con nhớ phải đi cho đúng thứ tự.
NguyetQuangTu
25-11-2010, 09:39
tamanh
Nhập môn Tham gia ngày: Sep 2010
Bài gởi: 20
--------------------------------------------------------------------------------
Từ khi đi thực tế Bát Cổ về Tâm Anh đã tìm kiếm các tài liệu về các vị Bát Cổ, nhân đây TA xin trích tài liệu viết về Bà chúa sao sa từ trang web của Ban quản lý di tích huyện Chí Linh để mọi người có thêm thông tin.
1. Thơ ca ngợi Bà chúa
Người xưa ca ngợi bà như Nghiêu Thuấn trong giới phụ nữ, thần tiên trong cõi đời. Nhân dân Chí Linh còn truyền nhau bài minh viết về bà như sau:
Lạ thay một kính chiếu ba vương,
Kiệt Đặc, Tinh Phi vốn cố hương.
Đẹp tuyệt trần gian, thêm sắc sảo,
Đỗ đầu thi hội, nổi văn chương.
Mất còn chuyện ấy, thây dâu bể,
Mến trọng ơn này tự phấn hương.
Gia ký hai câu còn để lại,
Tháp hoa đầu núi mấy tinh sương.
Đền thờ và lăng mộ bà Nguyễn Thị Duệ nay thuộc thôn Trại Sen, của xã Văn An, huyện Chí Linh. tỉnh Hải Dương.
2. Lăng mộ:
Theo sách “Chí Linh phong vật chí” sau khi bà chúa Sao Sa qua đời, người ta đưa hài cốt của bà về xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh an táng và trên xây một ngôi tháp bằng gạch nung vì vậy nhìn từ xa tháp có màu hồng rất đẹp, tháp có tên tự là: Tinh Phi cổ tháp.
Tinh Phi cổ tháp bị hư hại từ đầu thế kỷ XIX. Năm 1993 nhân dân địa phương kêu gọi công đức đã khôi phục lại ngôi tháp này nhưng kiến trúc đơn giản.
Chính vì vậy, nhằm bảo tồn và phát huy tốt giá trị của di tích nhà nước đang có phương án khôi phục lại “Tinh Phi cổ tháp” theo nguyên thể.
3. Đền thờ:
Từ năm 2004 trở lại đây nhận thấy tầm quan trọng của di tích, đặc biệt là về giá trị lịch sử của danh nhân. Ngày 28 tháng 6 năm 2006 UBND tỉnh đã ký quyết định số 2283/ QĐ-UBND phê duyệt dự án xây dựng đền thờ Nguyễn Thị Duệ. Dự án gồm các hạng mục: Đền chính, Tả hữu vu, Tam quan, 2 am hoá vàng và cải tạo nâng cấp Lăng mộ. Sau một thời gian ngắn thi công đến nay đã hoàn thành ba hạng mục: Đền chính, hai am hoá vàng và sân trước.
Đền thờ Nguyễn Thị Duệ được xây dựng trên cơ sở của ngôi đền cũ trên đỉnh đồi Mâm Xôi. mặt hướng theo phía tây nam. Theo thuyết phong thuỷ thế đất của đền như viên ngọc được bao bọc bởi dãy núi Phượng Hoàng. Phía trước là một đập nước rộng mênh mang chấp chới những cánh cò, cánh vạc vào những buổi hoàng hôn đã khẳng định nơi đây quả thật đất lành.
Đền thờ bà chúa Sao Sa kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Tiền tế ba gian hai dĩ và một gian Hậu cung. Phía sau Hậu cung là Tinh Phi cổ tháp.
Đây là di tích được xếp hạng cấp tỉnh và được Bộ Giáo dục chăm sóc bằng việc phát tâm công đức của giáo viên, học sinh và nhân dân cả nước nói chung và Chí Linh nói riêng.
( Tôi chuyển bài viết của tamanh về đây cho hợp lý )
Thưa Chú NQT,
Cháu chưa có cơ duyên được làm học trò của Bát Cổ nhưng cháu xin được tham gia. Bài sau đây cháu copy ở địa chỉ: http://consonkiepbac.org.vn/News.aspx?CategoryID=129.
--------------
ĐỀN QUỐC PHỤ
Thượng Tể cổ trạch, tức nhà cổ của quan Thượng Tể Trần Quốc Chẩn. Nằm bên tả ngạn sông Kinh Thầy, đền Quốc Phụ thuộc thôn Nẻo, xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là một trong tám di tích thuộc “Chí Linh bát cổ” nổi tiếng được nhiều sử sách ghi nhận. Đền Quốc Phụ là nơi thờ Trần Quốc Chẩn - một trong những danh tướng kiệt xuất của nhà Trần, tài đức vẹn tròn, hết lòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Căn cứ các tài liệu chính sử và thư tịch cổ, Trần Quốc Chẩn là em vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Ông có công lớn cùng các tướng lĩnh nhà Trần đánh giặc Chiêm Thành, được triều đình phong chức Nhập nội Quốc Phụ Thượng tể - chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ thượng thư.
Những năm cuối đời, Trần Quốc Chẩn cáo lão về quê sinh sống. Do mưu đồ sắp đặt Thái tử, một số gian thần đã vu khống Thượng Tể làm phản. Vua Trần Minh Tông (con rể của Trần Quốc Chẩn) đã xử ông tội chết. Đến năm Giáp Thân, tức năm Thiệu Phong thứ tư (1344), dưới thời Trần Dụ Tôn, vụ án Trần Quốc Chẩn mới được minh oan, triều đình phục chức, trả lại phẩm giá cho người đã khuất. Ghi nhận công lao của Trần Quốc Chẩn, triều đình đã giao cho bản xã sửa lại ngôi nhà cũ ở quê ông tại Kiệt Đặc, Chí Linh làm đền thờ. Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến đều ban sắc phong thần và cho phép địa phương theo trước phụng thờ, tôn vinh người có công với đất nước.
Đền Quốc Phụ được trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào thời Lê Trung Hưng (TK 17 - TK 18) và thời Nguyễn ( TK 19). Năm 1997 - 1998, được sự quan tâm của cấp trên, UBND xã Chí Minh đã phát động công đức, huy động mọi nguồn lực tại địa phương khôi phục lại đền Quốc Phụ xứng đáng với công lao và tài đức của Thượng Tể.
Đền Quốc Phụ được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng, nhìn về hướng nam. Theo thuyết phong thuỷ đền đặt trên thế đất có hình “kim xà” (rắn vàng), phía trước có khu Bến Đá ven sông Kinh Thầy; Bên tả là cánh đồng Lạng Trì và Ao Vả, tục truyền đây là nơi tắm gội của Quốc Chẩn; Bên hữu có cánh đồng Giảo Phướn; Phía sau là cánh đồng Đống Lăng - nơi phát hiện nhiều gạch cổ thời Trần (KT: 36 x 36 x 4 cm), nhiều khả năng liên quan tới một kiến trúc cổ thời Trần (?).Đền kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung.
Hàng năm, đền Quốc Phụ diễn ra 2 sự lệ chính: Lễ Đại Kỳ Phước từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 3 ( âm lịch ) và lễ giỗ Quốc Phụ vào ngày 12 tháng 6 (âm lịch ). Lễ hội có rước kiệu từ các làng phụ cận về đền Quốc Phụ và tổ chức tế lễ. Không khí lễ hội vui tươi, nhộn nhịp thu hút đông đảo nhân dân thập phương tham gia.
Hành hương về Côn Sơn - Kiếp Bạc, ghé thăm đền Quốc Phụ sẽ là dịp tri ân công đức của Người, mở mang tri thức về lịch sử, danh nhân và những huyền thoại nhà Trần trên mảnh đất Chí Linh.
--------------
P/S: Có thể có nhiều nguồn thông tin nhưng chúng ta cũng nên copy về đây để tiện cho việc đọc và tổng hợp sau này.
VỤ ÁN TRẦN QUỐC CHẨN
Trần Quốc Chẩn là con thứ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.(Cần phải tra cứu lại điểm này NQT). Quốc Chẩn có con gái là Hoàng hậu của vua Trần Minh Tông (1314 - 1329). Mãi đến năm 1328, do Hoàng hậu vẫn chưa có con trai nên ngôi Thái tử vẫn bỏ trống, nhiều kẻ lăm le lập con thứ của Trần Minh Tông. Vụ án Trần Quốc Chẩn vì thế mới xảy ra. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 9, tờ 26) đã chép lại đầu đuôi vụ án này như sau :
"Trước đây, Thượng hoàng (chỉ Trần Anh Tông - ND) vẫn trông mong nhiều vào Quốc Chẩn, muốn phó thác Nhà vua (chỉ Trần Minh Tông) cho ông. Đến lúc Thượng hoàng bị bệnh, mỗi khi Nhà vua vào thăm, Thượng hoàng bắt phải cùng đi với Quốc Chẩn để khỏi sinh lòng hiềm nghi. Đến đây Nhà vua tuổi đã nhiều mà chưa quyết định được ngôi Thái tử. Quốc Chẩn tự nhận mình là cố mệnh đại thần, lại là bố đẻ Hoàng hậu, nên cố chấp là đợi khi nào Hoàng hậu sinh con trai trưởng sẽ lập làm Thái tử. Văn Hiến Hầu (con của Trần Nhật Duật, không rõ tên) muốn đánh đổ Hoàng hậu để lập Hoàng tử tên là Vượng, bèn lấy 100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, xúi Trần Phẫu vu cáo Quốc Chẩn âm mưu làm phản. Nhà vua tin lời Trần Phẫu, bắt Quốc Chẩn giam ở chùa Tư Phúc, rồi đem việc ấy hỏi thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung vốn cùng bè đảng với Văn Hiến Hầu, lại là người cùng làng với mẹ đẻ của Vượng (bà Minh Từ Thái phi, người họ Lê, quê ở Giáp Sơn), hơn nữa, Khắc Chung từng giữ chức Sư phó để dạy Vượng, vì thế, Khắc Chung liền tâu ngay bằng câu thành ngữ tróc hổ dị, phóng hổ nan (bắt hổ dễ, thả hổ nguy !). Nhà vua bèn cấm tuyệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậu phải thấm nước vào áo đưa đến cho uống. Quốc Chẩn uống xong thì mất. Những người bị bắt lây lên đến hơn hai trăm, khi tra hỏi, ai cũng kêu gào là oan.
Về sau, vợ cả, vợ lẽ của Trần Phẫu ghen nhau, đem việc Văn Hiến Hầu đút lót vàng ra tố cáo. Nhà vua giao việc này cho quan giữ việc Hình ngục là Lê Duy xét hỏi. Lê Duy là người cương trực, lập tức tra xét ngay. Trần Phẫu phải tội lăng trì (tức xẻo thịt từng miếng cho đến chết), nhưng chưa kịp hành hình thì gia nô của Thiệu Vũ (con Quốc Chẩn) đã xẻo thịt Trần Phẫu ăn sống gần hết. Văn Hiến Hầu tuy được tha tội chết, nhưng giáng làm thứ nhân, tước bỏ tên họ trong hoàng tộc."
Vua Minh Tông rõ chuyện ấy, lấy làm ân hận lắm, nhưng việc đã lỡ rồi, không thể nào cứu vãn được, chỉ còn biết làm thơ để tự trách mình:
Dạ vũ
Thu khí hòa đăng thất thự minh,
Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh.
Tự tri tam thập niên tiền thác,
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh.
Dịch nghĩa:
Hơi thu và ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai,
Tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn.
Tự biết sai lầm của ta ba mươi năm trước,
Đành ôm sầu ngồi nghe mưa rơi.
Vũ Minh Am dịch thơ:
Mưa đêm
Hừng sáng, đèn nhòa, nhạt khí thu,
Ngoài song tàu chuối tiễn đêm mờ.
Ba mươi năm trước ta lầm lỗi,
Ôm nỗi hận sầu lắng tiếng mưa.
Bài thơ này có lẽ được làm vào khoảng năm 1356, nhân dịp vua Minh Tông (lúc bấy giờ đã trở thành Thái thượng hoàng) về thăm đền thờ Trần Quốc Chẩn ở huyện Chí Linh. Mùa xuân năm sau ông từ trần. Trước đó khá lâu, năm 1329, vua Minh Tông đã nhường ngôi cho thái tử Vượng, con bà hoàng phi Lê Thị. Thái tử Vượng lên ngôi tức là vua Trần Hiến Tông (1329-1341).
(Tổng hợp từ các nguồn trên Internet)
DƯỢC VIÊN CỔ LĨNH
Dược Viên Cổ Lĩnh (Tên trên bài gốc: Dược lĩnh cổ viên), tức Vườn cổ trên núi thuốc: Là vườn cây thuốc trên Dược Sơn - núi Nam Tào. Về phong thuỷ, đây là khu đất đắc địa có một không hai. Lúc bấy giờ Hưng Đạo Vương giao cho tướng quân Phạm Ngũ Lão tổ chức trồng cây trên núi Nam Tào để làm thuốc chữa bệnh cho quân và dân trong vùng nên gọi là Dược Sơn (Núi thuốc). Trên Dược Sơn có vườn thuốc quý, phong cảnh đẹp, đời sau gọi là Dược Viên Cổ Lĩnh. Khu vườn thuốc cổ này còn di tích đến ngày nay, trong khuôn viên trước chùa Nam Tào, thuộc khu di tích Kiếp Bạc, huyện Chí Linh.
DƯỢC SƠN
Dược lĩnh hoa thơm cỏ lạ nhường
Biết chăng, chăng biết thuốc thần tiên
Câu ca xưa để lại nói về vườn dược liệu quý được Hưng Đạo Vương cho trồng khi người về lập quân doanh ở Vạn Kiếp.
Tương truyền vào một buổi chiều mùa xuân sau khi thăm đội thuỷ chiến luyện quân, trên đường về dinh, Hưng Đạo Vương gặp một ông già râu, tóc bạc phơ, quần vải áo thô, vai đeo túi cói đang nhanh nhẹn đi về phía núi Nam Tào.
Nhìn tướng mạo, đi, đứng, có những điểm khác với người thường, Trần Hưng Đạo cho gia nhân mời ông già đến và nói :"Ta là Quốc công tiết chế xin hỏi : Người từ đâu đến, lên núi có việc gì ?" Ông già chắp tay vái tạ, tự xưng là lương y trong vùng vào rừng lấy thuốc về chữa bệnh. Hưng Đạo Vương rất mừng. Người đang cần một vườn thuốc tại chỗ để chữa bệnh trị thương cho quân sỹ, Người hỏi ông già về cây thuốc trong núi và địa điểm, chất đất trông cây dược liệu. Ông già thưa: Dược liệu ở núi rồng có nhiều, đất ở núi Nam Tào rất hợp với cây thuốc" và lấy ở trong bị cói một cây thuốc dâng lên :"Xin biếu Quốc công cây thuốc quý. Nói xong ông già vái tạ xin vào rừng hái thuốc.
Về quân doanh, Hưng Đạo Vương giao cho tướng quân Phạm Ngũ Lão chỉ đạo việc trông cây thuốc ở núi Nam Tào và sức cho danh y trong nước tiuyển chọn cây thuốc về trồng trên núi.
Tương truyền, vườn thuốc trồng được chăm bón chu đáo tốt nhanh. Cây dược liệu ông già biếu Trần Hưng Đạo, từ thân, vỏ đến lá, rễ đều chữa bệnh, trị thương rất tốt.
Trần Hưng Đạo gọi đó là Thần Dược.
Vườn dược liệu để lại cho đời sau nhiều thuốc quý. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp vườn thuốc bị tàn phá, hiện còn lại những cây nhỏ nhưng đều là những vị thuốc Nam quý. Vườn thuốc được xếp vào Chi Linh bát cổ (Dược Viên Cổ Lĩnh)
(Tổng hợp từ: http://trangnguyencoduong.violet.vn/entry/show/entry_id/2954331)
Thưa chú Nguyệt Quang Tử
Chào anh chị em trong diễn đàn.
Cháu mới bắt đầu tập khí công tâm linh được khoảng 1 tháng, bước đầu đã có một số cảm nhận, cháu sẽ post kết quả trong một chủ đề khác.
Hưởng ứng chủ đề " Viết về Bát Cổ " cháu xin đóng góp chút ít về lịch sử của thiền phái Trúc Lâm và các vị sư tổ . Thông tin này cháu tìm kiếm trên mạng, chưa có thời gian kiểm chứng, mong chú và các anh chị em đóng góp ý kiến.
Trúc Lâm Yên Tử (竹林安子) là một dòng thiền Việt Nam đời nhà Trần, do Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm cũng là hiệu của Trần Nhân Tông, đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng thiền Yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loavà Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12– đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái Trúc Lâm được một vị vua nhà Trần sáng lập, được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh(1600-1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
Sau một thời gian ẩn dật, dòng thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỉ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng.
Sau đây là hệ thống truyền thừa trong Đại nam thiền uyển truyền đăng lục (大南禪苑傳燈錄), được Thiền sư Phúc Điền (福田) đính bản:
1. Trần Nhân Tông
2. Pháp Loa
3. Huyền Quang
4. An Tâm (安心);
5. Phù Vân Tĩnh Lự (浮雲靜慮);
6. Vô Trước (無著);
7. Quốc Nhất (國一);
8. Viên Minh (圓明);
9. Đạo Huệ (道惠);
10. Viên Ngộ (圓遇);
11. Tổng Trì (總持);
12. Khuê Sâm (珪琛);
13. Sơn Đăng (山燈);
14. Hương Sơn (香山);
15. Trí Dung (智容);
16. Huệ Quang (慧 光);
17. Chân Trụ (真住);
18. Vô Phiền (無煩).
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BB%81n_ph%C3%A1i_Tr%C3%BAc_L%C3%A2m
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba củanhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trướcTrần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất tronglịch sử Việt Nam.
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (1258).
Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm 1278, ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.
Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.
[sửa]Niên hiệu
Thiệu Bảo (1278 - 1285)
Trùng Hưng (1285 - 1293)
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm[1], Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,[2] lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.
Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
Tại Hà Nội có phố Trần Nhân Tông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Thi phẩm
Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần
Xuân hiểu
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
Buổi sớm mùa xuân
Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chửa hay,
Song song đôi bướm trắng,
Phất phới sấn hoa bay.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Hạnh Thiên Trường hành cung
Cảnh thanh u vật diệc thanh u
Thập nhất tiên châu thử nhất châu.
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
Kim niên du thắng tích niên du
Dạo chơi hành cung Thiên Trường
Cảnh thanh u vật cũng thanh u
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát
Nghìn hàng đám quít, đám quân hầu
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước có thu lồng trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng
Độ xưa so với độ nay thua.
(Bản dịch Khuyết danh)
Cư trần lạc đạo (http://vannghevietnam.vn/portal.asp?type=portal&tab=detail&menuID=124&subMenuID=238&id=416&path=C%C6%B0_tr%E1%BA%A7n_l%E1%BA%A1c_%C4%91%E1%BA %A1o_(Tr%E1%BA%A7n_Nh%C3%A2n_T%C3%B4ng)
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO (TRẦN NHÂN TÔNG)
Thứ sáu, 21/11/2008 - 7:47:25 PM
Đệ nhất hội
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
Tham ái nguồn dừng , chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng , được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
Chơi nước biếc ẩn non xanh , nhân gian có nhiều người đắc ý
Biết đào hồng hay liễu lục , thiên hạ năng mỗ chủ tri âm
Nguyệt bạc vừng xanh , soi mọi chỗ thiền hà lai láng
Liễu mềm hoa tốt , ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm
Lo hoán cốt ước phi thăng , đan thần mới phục
Nhắm trường sinh về thượng giới , thuốc thỏ còn đam
Sách dễ xem chơi , yêu tính sáng yêu hơn châu báu
Kinh nhàn đọc dấu , trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim
**
Đệ nhị hội
Biết vậy !
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc
Xét thân tâm rèn tính thức há rằng mong quả báo phô khoe
Cầm giới hạnh địch vô thường nào có sá cầu danh bán chác
Ăn rau ăn trái nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay
Vận giấy vận sồi thân căn có ngại chi đen bạc
Nhược chỉn vui bề đạo đức nửa gian lều quý nửa thiên cung
Dầu năng miễn thửa nhân nghì ba phiến ngói yêu hơn lầu gác
**
Đệ tam hội
Nếu mà cốc
Tội ắt đã không
Pháp học lại thông
Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo
Sửa mình học cho phải chính tông
Chỉn bụt là lòng sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ
Vong tài đổi sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công
Áng tư tài tính sáng chẳng tham , há vì ở Cánh Diều Yên Tử
Răn tham sắc niềm dừng chẳng chuyển , lọ chi ngồi Am Sạn Non Đông
Trần tục mà nên , phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc , họa kia thực cả đồ công
Nguyền mong thân cận minh sư , quả Bồ đề một đêm mà chín
Phúc gặp tình cờ tri thức , hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông
**
Đệ tứ hội
Tin xem
Miễn cốc một lòng
Thời rồi mọi hoặc
Chuyển tam độc mới chứng tam thân
Đoạn lục căn nên trừ lục tặc
Tìm đường hoán cốt , chỉn xá năng phục dược luyện đan
Hỏi pháp chân không , hề chi lánh ngại thanh chấp sắc
Biết chân như , tin bát nhã , chớ còn tìm phật tổ tây đông
Chứng thực tướng nên vô vi , nào nhọc hỏi kinh nam bắc
Xem Tam Tạng giáo , ắt học đòi thiền uyển thanh quy
Đốt ngũ phần hương , chẳng tổn đến chiên đàn chiêm bặc
Tích nhân nghì tu đạo đức , ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh đoạn ghen tham , chỉn thực ấy là Di Lặc
**
Đệ ngũ hội
Vậy mới hay
Bụt ở cong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chỉn bụt là ta
Thiền ngỏ năm câu , nằm nhãng cong quê Hà Hữu
Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La
Trong đạo nghĩa , khoảng cơ quan , đà đụt lặn trường kinh cửa tổ
Lánh thị phi , ghê thanh sắc , ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
Đức bụt từ bi , mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã qua
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa , hoặc châm hoặc xể
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa , dầu bạc dầu thoa
Ngăn bát thức nén bát phong , càng đè càng bội
Lẩy tam huyền , nong tam yếu , một cắt một ma
Cầm vốn thiếu dây , xá đàn dấu xoang Vô sinh khúc
Địch chăng có lỗ , cũng bấm chơi xướng Thái bình ca
Lẩy cội tìm cành , còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão
Quay đầu chớp bóng , ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa
Lọt quyển kim cương , há mặt hầu thông nên nóng
Nuốt bồng lật cức , nào tay phải xước tượng da .
**
Đệ lục hội
Thực thế
Hãy xá vô tâm
Tự nhiên hợp đạo
Dừng tam nghiệp mới lặng tam thân
Đạt một lòng thì thông tổ giáo
Nhận văn nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ
Chứng lý tri cơ , cứng cát phải nạp tăng khôn khéo
Han hữu lậu han vô lậu , bảo cho hay the lọt duộc thưng
Hỏi Đại thừa hỏi Tiểu thừa , thưa thẳng tắt sồi tiền tơ gạo
Nhận biết làu làu lòng vốn , chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên
Dồi cho vặc vặc tính gương , nào có nhuộm căn trần huyên náo
Vàng chưa hết quặng , xá tua chín phen đúc chín phen rèn
Lộc chẳng còn tham , miễn được một thì chay một thì cháo
Sạch giới lòng dồi giới tướng , nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa thảo thờ cha , đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
Tham thiền kén bạn , nát thân mình mới khá hồi ân
Học đạo thờ thầy , dọt xương óc chưa thông của báo
**
Đệ thất hội
Vậy mới hay
Phép bụt trọng thay
Rèn mới cốc hay
Vô minh hết bồ đề thêm sáng
Phiền não rồi đạo đức càng say
Xem phỏng lòng kinh lời bụt thốt dễ cho thấy dấu
Học đòi cơ tổ sá thiền không khôn chút biết nơi
Cùng căn bản , tã trần duyên , mựa để mỗ hào ly đương mặt
Ngã thắng chàng , viên tri kiến , chớ cho còn họa trữ cong tay
Buông lửa giác ngộ đốt hoại thảy rừng tà thời trước
Cầm kiếm trí tuệ quét cho không tính thức thuở nay
Vâng ơn thánh , xót mẹ cha , thờ thầy học đạo
Mến đức Cù , kiêng bùi ngọt , cầm giới ăn chay
Cảm đức từ bi , để nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Đòi ơn cứu độ , nát muôn thân thà chịu đắng cay
Nghĩa hãy nhớ , đạo chẳng quên , hương hoa cúng xem còn nên thảo
Miệng rằng tin , lòng lại lỗi , vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay
**
Đệ bát hội
Chưng ấy
Chỉn xá tua rèn
Chớ nên tuyệt học
Lay ý thức chớ chấp chằng chằng
Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc
Công danh mảng đắm , ấy toàn là những đứa ngây thơ
Phúc tuệ gồm no , chỉn mới khá nên người thực cốc
Dựng cầu đò , dồi chiền tháp , ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu
Săn hỉ xả , nhuyễn từ bi , nội tự tại kinh lòng hằng đọc
Rèn lòng làm bụt , chỉn xá tu một sức dùi mài
Đãi cát kén vàng , còn lại phải nhiều phen lựa lọc
Xem kinh đọc lục , làm cho bằng thửa thấy thửa hay
Trọng bụt tu thân , dùng mựa lỗi một tơ một tóc
Cùng nơi ngôn cú , chỉn chăng hề một phút ngại lo
rất thửa cơ quan , mựa còn để tám hơi dọt lọc
**
Đệ cửu hội
Vậy cho hay
Cơ quan tổ giáo
Tuy khác nhiều đường
Chẳng cách mấy gang
Chỉn xá nói từ sau Mã tổ
Ắt đã quen thuở trước Tiêu Hoàng
Công đức toàn vô , tính chấp si càng thêm lỗi
Khuếch nhiên bất thức , tai ngu mảng ắt còn vang
Sinh Thiên Trúc , tử Thiếu Lâm , chôn dối chân non Hùng Nhĩ
Thân bồ đề , lòng minh kính , bài giơ mặt vách hành lang
Vương lão chém mèo , lại trẩy lòng ngừa thủ tọa
Thầy Hồ khua chó , trỏ xem trí nhẹ con giàng
Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư , chẳng cho mà cả
Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc , khôn đến thưa đang
Phá Táo phất cờ , đạp xuống dấu thiêng thần miếu
Câu Chi day ngón , dùng đòi nếp cũ ông ang
Lưỡi gươm Lâm Tế , nạng Bí Ma , trước nạp tăng dầu tự tại
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu , răn đàn việt hượm xá nghênh ngang
Đưa phiến tử , cất trúc bề , nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn
Xô hòn cầu , cầm mộc thược , bạn thiền hòa thửa khoe khoang
Thuyền tử rà chèo , dòng xanh chửa cho tịn tẩy
Đạo Ngô múa hốt , càn ma dường thấy quái quàng
Rồng Yển lão nuốt càn khôn , ta xem chỉn lệ
Rắn ông Tồn ngang thế giới , người thấy ắt dương
Cây bách là lòng , thác ra trước phải phương Thái Bạch
Bính đinh thuộc hỏa, lại trở sau hỏi hướng Thiên Cang
Trà Triệu lão, bánh Thiều dương , bầy thiền tử hãy còn đói khát
Ruộng Tào Khê , vườn Thiếu Thất , chúng nạp tăng những để lưu hoang
Gieo bó củi , nẩy bông đèn , nhân mang mới nát
Lộc đào hoa nghe tiếng trúc , mặc vẻ mà sang
**
Đệ thập hội
Tượng chúng ấy
Cốc một chân không
Dụng đòi căn khí
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông
Há cơ tổ nay còn thửa bí
Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến , bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành
Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên , ai ghẽ có sơn lâm thành thị
Núi hoang rừng quạnh , ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
Triền vắng am thanh , chỉn thực cảnh đạo nhân du hí
Ngự cao tán cả , Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang
Gác ngọc lầu vàng , ngục tốt thiếu chi người yêu quý
Chuộng công danh , lồng nhân ngã , thực ấy phàm phu
Say đạo đức , dời thân tâm , định nên thánh trí
Mày ngang mũi dọc , tướng tuy là xem ắt bẵng nhau
Mặt thánh lòng phàm , thực cách nhẫn vạn vàn thiên lý
**
Kệ vân:
Cư trần lạc đạo thả trùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền
Gia quyến
Vợ:
Bảo Thánh hoàng hậu hay Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu (?-13/9/1293), con gáiTrần Hưng Đạo.
Tuyên Từ hoàng hậu hay Tuyên Từ thái hậu (?-19/8/1318)
Con trai:
Hoàng Thái Tử -> Anh Tông Trần Thuyên (con của Bảo Thánh Hoàng Hậu)
Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (29/1/1281-3/1328)
Con gái:
Công chúa Huyền Trân
Đại Việt sử ký toàn thư của các sử gia thời Hậu Lê nhận định về ông:
“Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân”.
Đền thờ
Đền Trần ở quê hương Nam Định
Đền Thái Vi nơi các vua Trần xuất gia
Đỉnh thiêng Yên Tử
Đền Trần Nhân Tông tại Huế
Tượng đài
Công trình tượng đài Trần Nhân Tông được xây dựng tại khu vực An Kỳ Sinh, trên non thiêng Yên Tử có kinh phí đầu tư gần 70 tỷ đồng.
Tượng đài với các phần: Đài sen và tượng được đúc bằng đồng liền khối (nguyên liệu nhập từ Australia), nặng khoảng 100 tấn, cao 9,9 m. Bệ đỡ tượng cao 2,9m; rộng 7,25m, kết cấu bằng bê tông cốt thép cường độ chịu lực ca; sân hành lễ, bậc đá, khuôn viên được lát bằng đá phiến tự nhiên.
Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Nh%C3%A2n_T%C3%B4ng
Một số giai thoại về vua Trần Nhân Tông
Năm 21 tuổi, vua Trần Nhân Tông lên ngôi hoàng đế năm 1279, tuy ở địa vị cửu trùng mà ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập,thường ngày ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Một hôm đang nghỉ trưa, ngài thấy trong rốn mọc lên một bông sen vàng lớn bằng bánh xe, giữa hoa sen có đức phật vàng, có người đứng bên cạnh chỉ ngài nói " Biết ông phật này chăng?" Là Đức phật Biết chiếu. Tỉnh giấc,ngài đem chuyện đó tâu lên vua cha, vua cha cho là chuyện kỳ lạ. Ngài thường ăn chay lạc, thân thể gầy ốm, Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ nên hỏi nguyên do, vua trình bầy với vua cha,Thánh Tông khóc bảo " Nay ta đã già, chỉ trông cậy vào một mình con, con lại làm như thế làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên ?" Vua Trần Nhân Tôngg nghe vậy cũng rơi nước mắt.
Tâm Anh xin tiếp tục với đề tài viết về Bát Cổ. Tài liệu TA sưu tập được từ website của Ban quản lý di tích huyện Chí Linh.
II. Tiều ẩn Cổ Bích - Đền thờ nhà giáo cụ Chu Văn An
1. Tiểu sử:
Thầy Chu Văn An hiệu là Tiều Ẩn – tự là Linh Triệt, thuỵ là Văn Trinh. Sinh ngày 25 tháng 8 năm Nhâm Thìn niên hiệu Trùng Hưng thứ 2 (1292) tại thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội). Cha là Chu Văn Thiện, mẹ là Lê Thị Chuân.
Thuở nhỏ sớm có nghị lực, học rất giỏi, nghiêm khắc sửa mình, cương trực thẳng thắn, không màng danh lợi. ( Theo thần tích tại quê Thanh Liệt – Thanh Trì - Hà Nội, ông đỗ Tiến sỹ năm 12 tuổi). Mặc dù đỗ đạt cao nhưng ông không ra làm quan mà ở nhà đọc sách và dạy học tại thôn Văn. Trường Huỳnh Cung của thầy là cái nôi đào tạo hiền tài khắp xa gần. Có học trò là vương tôn, công tử, có học trò khoác áo thường dân, lại có cả học trò không phải người phàm tục. Chu Văn An thường nói với các học trò của thầy rằng: Ta chỉ dạy cho các trò làm nguời chứ không dạy cho các tro làm quan. Học trò của thầy nhiều người đỗ đạt cao vẫn giữ đức thanh liêm và làm nên sự nghiệp lớn như: Lê Quát, Phạm Sư Mạnh. Cảm mến tài đức của thầy, vua Trần Minh Tông mời thầy về Thăng Long làm Tư nghiệp Quốc Tử giám và dạy thái tử học.
Khi Trần Dụ Tông lên ngôi, vua ham thích vui chơi, trễ nải việc chính trị, bề tôi nhiều người vi phạm phép nước, đời sống nhân dân khổ cực cơ hàn sưu cao thuế nặng, bọn gian thần thì lộng quyền hà khắc ức hiếp dân lành. Vận mệnh đất nước ảm đạm bởi lũ quan tham. Thấy được tội ác tầy trời của những kẻ nịnh thần cần phải xử nghiêm để giữ yên kỷ cương phép nước, nhiều lần Chu Văn An thẳng thắn khuyên vua sửa trị nhưng vua không nghe. Thầy bèn dâng “Thất trảm sớ” xin chém đầu 7 tên nịnh thần nhưng vua bỏ qua không xem xét. ( Mai Thọ Đức, Trâu Canh, Bùi Khâm, Văn Hiến, Nguyễn Thanh Lương, Tâm Đức Ngưu, Đoàn Nhữ Cẩu). Đau lòng trước nhân tình, thế thái thầy từ quan, treo mũ áo tại cửa Huyền Vũ, về núi Phượng Hoàng, Chí Linh, dựng nhà dạy học, tìm cây thuốc chữa bệnh, làm thơ, viết sách lưu lại cho hậu thế. Sống giữa tùng xanh, trúc biếc, lấy tên Tiều Ẩn – ví mình như một tiều phu ẩn dật trong rừng.
Tuy Chu Văn An ở chốn lâm tuyền nhưng tấm lòng vẫn đau đáu vận mệnh quốc gia. Và triều đình cũng không quên một nhân tài mẫu mực. Khi triều chính có đại sự, bao giờ cũng mời ông về tham dự. Mỗi lần như thế ông đều tâu bày thẳng thắn, hy vọng giữ vững kỉ cương, làm cho quốc thái, dân an, thể hiện một nhân cách lớn. Vua thường cho người mang lễ vật đến nhà ban tặng. Thầy thường từ chối và nếu có nhận lại đem chia cho mọi người.
Năm 1370, Trần Nghệ Tông lên ngôi thầy cả mừng, tuy tuổi đã cao, vẫn chống gậy về kinh bái yết. Vua ban chức gì ông cũng không nhận. Sau lễ bái yết, thầy trở lại nhà riêng ở Phượng Hoàng và mất tại đây vào ngày 26 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) thọ 79 tuổi.
Vua Nghệ Tông được tin liền cho quan triều đến tế, đặt tên Thụy là Văn Trinh, hiệu là: Tiều Ẩn Khang Tiết tiên sinh, sắc phong Thượng Đẳng Thần và cho phối thờ tại Văn Miếu, ban tiền làm đền thờ ở 27 xã có môn sinh của Chu Văn An. Đây là trường hợp đặc biệt của giới nho sĩ nước nhà. Sau khi thầy mất, học trò làm nhà bên mộ đến cả năm, tế lễ để tỏ lòng thương tiếc thầy. Lịch sử dân tộc tôn vinh thầy là nhà nho có đức nghiệp lớn nhất. Sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn: “Văn Trinh Công thờ vua thì nói thẳng trước mặt; việc xuất hay xử đều có lí lẽ, rèn đúc nhân tài thành công khanh; cao thượng, tiết tháo, thiên tử cũng không bắt nổi làm tôi, nét mặt nghiêm nghị mà đạo làm thầy được tôn; lời nói lẫm liệt mà kẻ nịnh phải sợ. Đáng là bậc tôn sư của nhà nho nước Nam ta.”
Sự nghiệp của Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo mẫu mực của muôn đời, là tấm gương sáng cho hâu thế noi theo. Sinh thời thầy có làm thơ, viết sách, nghiên cứu y dược, Chu Văn An biên soạn nhiều sách để dạy học và sáng tác nhiều thơ văn như: Tứ thư thuyết ước, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Y học yếu giải…Nay phần lớn đã thất truyền, chỉ còn lại 12 bài thơ chữ Hán và tập Y học yếu giải. Những bài thơ còn lại đến nay phần lớn được sáng tác trong những năm cuối đời ở Phượng Hoàng như các bài: Linh sơn tạp hứng, Thanh Lương giang, Miết trì, Xuân đán, Sơ hạ…
Trong sự nghiệp giáo dục, Chu Văn An có nhiều cải cách tiến bộ khiến cho đương thời và mãi mãi về sau ghi nhận và trân trọng. Thầy là người đầu tiên truyền đạo Nho của Khổng Tử sang Việt Nam thành một đạo riêng biệt của người Việt đó là “Hữu giáo vô loại”, tức là nền giáo dục đi tới muôn dân.
Trong khắp các nhà trường của chúng ta ngày nay đều dạy học sinh theo quan điểm “Học đi đôi với hành” Điều này 700 năm trước thầy Chu Văn An đã nói: “ Học mới chỉ là mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến được, có biết mới làm được, có làm mới biết. Nhưng cái biết trong làm mới là cái biết thiết thực, cái biết sâu sắc nhất.
Đã hơn sáu thế kỷ, kể từ khi Chu Văn An qua đời, những tư liệu viết về ông đã thất lạc nhiều, di tích liên quan đến ông cũng thay hình đổi dạng. thế nhưng, những gì người đời viết về ông còn lại đến hôm nay đều là những lời lẽ trân trọng, chí tình về một nhà giáo tài đức vẹn toàn. Những di tích dù ở chốn rừng sâu hay giữa đô thành hoa lệ đều có sức hấp dẫn lạ thường và được nhân dân nhiệt tâm gìn giữ.
Sau khi Chu Văn An qua đời, tại nơi thầy làm nhà dạy học và sống những năm tháng thoái triều đã được dựng ngôi đền thờ thầy gọi là đền Phượng Hoàng.
Đền Phượng Hoàng – đền thờ thầy giáo Chu Văn An được xây dựng trên nền “Tiều Ẩn cổ bích” – một trong tám di tích cổ của đất Chí Linh.
Di tích đền Thầy cách đây 700 năm chỉ còn lại phế tích. Được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, các ban ngành đoàn thể đặc biệt là ngành giáo dục đã tiến hành cuộc đại trùng tu và tôn tạo các hạng mục công trình tại khu di tích bằng công đức của giáo viên và học sinh cả nước nhằm phát huy truyền thống văn hóa – giáo dục của nước nhà. Không chỉ vậy còn biến Phượng Hoàng thành một điểm du lịch thú vị của Chí Linh.
2. Đền thờ thầy giáo Chu Văn An
Đền thờ tọa lạc trên núi Phượng Hoàng. Còn được gọi là “Phượng Sơn linh từ”. Đền được xây dựng trên một thế đất cao, rộng và linh thiêng. Đền được xây dựng theo thuyết phong thuỷ của người xưa, phía trước có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phượng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì lân và núi Phượng Hoàng như sải cánh của con chim phượng.
Đền Chu Văn An kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, dựa theo kiến trúc thời Nguyễn, chồng diêm hai tầng tám mái. Nghệ thuật trang trí của đền theo đề tài tứ linh, tứ quý: long, ly, quy, phượng, tùng, cúc, trúc, mai. Các bức y môn sơn son thiếp vàng trang trí theo hình tượng: rồng chầu hoa cúc mãn khai.
Đền thờ Chu Văn An gồm năm gian tiền tế và một gian Hậu cung. Có 5 ban thờ: Phía trong Hậu cung đặt tượng thờ thầy giáo Chu Văn An, tượng bằng đồng, nặng 100kg trị giá 79 triệu đồng do ĐH Kiến trúc công đức, trên là bức đại tự với hàng chữ “ Vệ dực chính đạo”. Ban tiếp theo là thờ gia tiên họ Chu, bên trên có bức đại tự “ Chính học thuần hành”. Ban chính giữa là ban công đồng, có 3 bức đại tự: Bức ở giữa “ Chấn phấn Nho học”; bức bên trái là “Minh thánh đạo”; bức bên phải là “Nhân trí dũng” và toàn bộ hoành phi câu đối ca ngợi đức độ Chu Văn An. Ban phía bên tay phải từ trong ra là ban thờ học trò thầy Chu Văn An, ban bên trái thờ Sơn thần Phượng Hoàng.
Kiến trúc giai đoạn một bao gồm các hạng mục công trình: đền chính, sân thượng, các bậc đá, hai đuôi rồng đá, sân chung với hai nhà giải vũ, sân hạ và hai nhà bia. Đặc biệt hai rồng đá kiến trúc theo kiểu rồng thời Trần chắc, khoẻ, các bậc đá đều xây dựng theo kiểu thất trảm sớ ( có 7 bậc).
3. Lăng mộ Thầy Chu Văn An
Lăng mộ Thầy tọa lạc trên mỏm núi Phượng Hoàng giữa rừng thông bát ngát, cảnh quan thiên nhiên khu lăng mộ Chu Văn An khá đẹp.
Di tích đền thờ nhà giáo Chu Văn An được khôi phục, tôn tạo lại vào năm 1997, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân xa gần cũng như giáo giới trong cả nước . Kiến trúc xây liền khối theo hình chữ nhật theo hướng Đông Nam. Trang trí mỹ thuật chính tập trung khắc hoạ hình tượng: Cuốn sách và giải bút nhọn thể hiện cho đức nghiệp thanh cao, trong sáng vì sự nghiệp giáo dục đất nước của thầy Chu Văn An.
4. Điện Lưu Quang nằm bên phải đền về phía tây – tương truyền là nơi Thầy dạy học khi về núi Phượng Hoàng.
Đến với mảnh đất Chí Linh là đến với một mảnh đất láng hồn thiêng sông núi. Thiên nhiên thơ mộng và khí thiêng sông núi nơi đây đã đi vào thơ ca, nhạc, họa tự bao đời. Mảnh đất này không chỉ làm say lòng các tao nhân mặc khách tài hoa mà còn nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người khiến ta yêu thiên nhiên và say mê cái đẹp. Mỗi khi lòng mình u ẩn bởi những lo toan, tất bật của cuộc sống thường nhật hay mệt mỏi trước thế thái nhân tình, hãy tìm về với sông núi nơi đây, đắm mình trong sắc biếc của thông mã vĩ, lặng nghe tiếng suối reo rì rào, bao mệt mỏi buồn lo sẽ tan đi và lại thấy bao điều kì diệu sẽ mở ra trước mắt.
5. Phong tục - Lễ hội: (Theo âm lịch)
Đền thờ nhà giáo Chu Văn An đã trở thành một địa chỉ tâm linh cho các thầy cô giáo, các em học sinh và nhân dân cả nước. Vào những ngày lễ du khách về chiêm bái đền Thầy rất đông. Nhiều sở giáo dục, phòng giáo dục, nhiều trường đến đền Thầy làm lễ dâng hương, phát thưởng, xin chữ Thánh Hiền cho Giáo viên và học sinh.
- Lễ hội mùa xuân: diễn ra vào tháng Giêng
- Lễ hội mùa thu: diễn ra vào tháng 8 – mùa khai giảng. (lễ chính ngày 25 tháng 8 – Sinh nhật Thầy)
- Lễ hội Về Nguồn: diễn ra vào 26 tháng 11 – tưởng niệm ngày mất của Thầy.
- Trước khi vào mùa thi khách đến lễ Thầy xin lộc thi cử rất đông
- Những năm gần đây, Ngày 20 – 11, rất nhiều du khách đến dâng hương Thầy.
Thượng Tể Cổ Trạch
Thượng Tể Cổ Trạch gương sáng ngời
Tài năng, đức độ truyền muôn đời
Bình Chiêm, hộ Quốc, hưng Tổ nghiệp
Hào khí Đông A sáng đất trời.
Kim Quy Cổ Loan
Kim Quy Cổ Loan việc kỳ tình
Một nhà năm Thánh cùng hiển linh
Giúp vua dẹp giặc cứu dân, nước
Xong việc, về trời chẳng tham vinh.
Phao Sơn Cổ Thành
Phao Sơn Cổ Thành mãi tiếng vang
Anh hùng xuất hiện chốn dân gian
Tre ngà, liên nỏ phá giặc mạnh
Sáng danh người Việt thủa hồng hoang.
Tinh Phi Cổ Tháp
Tinh Phi Cổ Tháp ánh hào quang
Đệ nhất nữ trạng của nước Nam
Tài, Chí đi trước hàng niên kỷ
Thực thi bình đẳng thật vẻ vang.
Huyền Thiên Cổ Tự
Huyền Thiên Cổ Tự nơi địa linh
Tam Tổ hành đạo độ chúng sinh
“Cư Trần Lạc Đạo” Ngài truyền lại
Chúng đẳng làm theo hưởng khang ninh.
Long Động Cổ Chai
Long Động Cổ Chai vẫn ngát hương
Hoa sen giếng ngọc như vấn vương
Một đời tài hoa và liêm chính
Lưỡng Quốc Trạng Nguyên niềm kính thương.
Thầy Chu Văn An – Người Thầy của muôn đời
1/ Thân thế và sự nghiệp
a/ Thân thế
Thầy Chu Văn An tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Thầy sinh ngày 6 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1292) mất ngày 28 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) tại làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Thân phụ Thầy là cụ Chu Húy Thiệu người phương Bắc, một quan chức giỏi thiên văn địa lý. Thân mẫu thầy là cụ Lê Thị Chiêm, người thôn Văn làm buôn bán nhỏ ở chợ để nuôi thầy ăn học.
Thầy Chu Văn An thuở nhỏ sớm có nghị lực, học rất giỏi, nghiêm khắc sửa mình, cương trực thẳng thắn, không màng danh lợi. Thầy đỗ Tiến sỹ năm 12 tuổi. Mặc dù đỗ đạt cao nhưng thầy không ra làm quan mà ở nhà đọc sách và dạy học tại thôn Văn, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có người đỗ đại khoa, vào chính phủ như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã làm hành khiển và vẫn giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì Thầy nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Thầy có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Thầy là một nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối thời Trần.
b/ Sự nghiệp
Do thời đó trường lớp ít quá chỉ có trường Quốc Tử Giám nên thầy đã mở thêm trường Huỳnh Cung tại quê nhà (Thanh liệt, Thanh trì, Hà Nội) để dạy học. Học trò đến học rất đông tới 3.000 người. Thời kỳ dạy học ở Huỳnh cung, thầy chuyên truyền đạt kinh điển Nho giáo, mục đích cao nhất của thầy không ngoài “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy sự cung kính, trung hậu và văn nhã. Học trò ở trường Huỳnh Cung cũng chịu ảnh hưởng của thầy Chu Văn An rất lớn. Trong khoa thi năm 1314, hai học trò của thầy đỗ Thái học sinh tương đương học vị tiến sĩ. Việc này gây tiếng vang lớn trong giới sĩ tử đương thời. Thầy giáo Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được cả nước biết đến. Trường Huỳnh cung trở thành mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Kể từ đây, bên cạnh trường quốc lập, các trường dân lập phát triển, đông đảo con em nhân dân có nơi học tập, sự nghiệp giáo dục nước nhà mở rộng hơn trước.
Vua Trần Minh Tông (1300-1357) mời Thầy ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua T (https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Hi%E1%BA%BFn_T%C3%B4ng)rần Hiến Tông tương lai. Đến đời Dụ tông, thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, thầy dâng Thất trảm sớ xin chém bảy tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Thầy chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn (người hái củi ở ẩn) dạy học, viết sách cho tới khi mất.
Thầy thích núi Chí Linh nên ở đấy, khi nào có triều hội lớn thì đến kinh sư. Thái Tử Dụ Tông đem chính sự trao cho thầy nhưng thầy từ chối không nhận. Hiến Từ hoàng thái hậu bảo: “Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được ông ta?”. Vua sai nội thần đem quần áo ban cho thầy. Thầy lạy tạ xong, liền đem cho người khác hết. Thiên hạ đều cho là bậc cao lương.
Từ khi thầy Chu Văn An về ở núi Chí Linh, Chí Linh dấy lên phong trào học tập, nhiều người học giỏi nổi tiếng. Đặc biệt, ở đời nhà Mạc, huyện này có bà Nguyễn Thị Duệ thi đỗ tiến sĩ, là nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của Việt Nam thời phong kiến. Ngoài ra còn có Nguyễn Phong, mới 14 tuổi đã cùng cha thi đỗ kỳ thi Hương, 26 tuổi đỗ tiến sĩ. Những ngày dạy học ở Chí Linh, thầy còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y học, giúp người dân chữa bệnh.
Khi Thái tử Dụ Tông băng, quốc thống suýt mất, nghe tin các quan đến lập vua, thầy mừng lắm. Chống gậy đến xin bái vết, xong lại xin trở về quê từ chối không nhận chức gì.
Tháng 11/1370 thầy ốm nặng và mất lúc 78 tuổi. Khi thầy mất, Vua sai quân đến tế, ban tặng tên thụy, ít lâu sau có lệnh cho tòng tư ở Văn miếu, xem thầy ngang hàng với các bậc thánh hiền ngày xưa.
Sự nghiệp của thầy Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo mẫu mực của muôn đời, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Sinh thời thầy có làm thơ, viết sách, nghiên cứu y dược, thầy Chu Văn An biên soạn nhiều sách để dạy học và sáng tác nhiều thơ văn như: Tứ thư thuyết ước, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Y học yếu giải…Nay phần lớn đã thất truyền, chỉ còn lại 12 bài thơ chữ Hán và tập Y học yếu giải. Những bài thơ còn lại đến nay phần lớn được sáng tác trong những năm cuối đời ở Phượng Hoàng như các bài: Linh sơn tạp hứng, Thanh Lương giang, Miết trì, Xuân đán, Sơ hạ…
Trong sự nghiệp giáo dục, thầy Chu Văn An có nhiều cải cách tiến bộ khiến cho đương thời và mãi mãi về sau ghi nhận và trân trọng. Thầy là người đầu tiên truyền đạo Nho của Khổng Tử sang Việt Nam thành một đạo riêng biệt của người Việt đó là “Hữu giáo vô loại”, tức là nền giáo dục đi tới muôn dân.
Trong khắp các nhà trường của chúng ta ngày nay đều dạy học sinh theo quan điểm “Học đi đôi với hành” Điều này 700 năm trước thầy Chu Văn An đã nói: “ Học mới chỉ là mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến được, có biết mới làm được, có làm mới biết. Nhưng cái biết trong làm mới là cái biết thiết thực, cái biết sâu sắc nhất.
2/ Sự tích các ngôi đền thờ Thầy Chu Văn An
a/ Văn miếu Quốc Tử Giám
Sau khi thầy Chu Văn An mất, vua Trần Nghệ Tông cảm phục tài năng và đức độ của Thầy đã ban tước là Văn Trinh Công, tên thụy là Khang Tiết và cho phối thờ tại Văn Miếu.
Khu Thái Học được hoàn thành vào năm 2000 là công trình kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội. Năm 2003, Thầy đã được làm tượng và thờ tại đây. Nhà điêu khắc Lê Quốc Bảo là tác giả của pho tượng. Tác giả đã nghiên cứu rất kỹ về Thầy Chu Văn An. Ông đã dồn tâm huyết để hoàn thành pho tượng lột tả được nhân cách, thần thái và phong cách của Danh sư Chu Văn An. Tượng mang dáng vẻ của người khoảng 60 tuổi, đầu đội mũ Đinh, trên mũ có gắn viên ngọc của các bậc hiền triết. Vốn là quan văn nên khuôn mặt Thầy xương xương nho nhã, râu mỏng và thưa, mày đang chau lại vì quan tâm thời cuộc. Vầng trán Thầy cao rộng, hình lá gan úp thể hiện là người tư duy trực cảm mạnh mẽ. Mũi giọt mật của bậc hiền sĩ là người thông thái. Hai tai đều đặn, thùy tai đẫy đà, vành tai thành quách rõ ràng biểu hiện của người quân tử. Phía sau lưng ghế có chạm trổ hình cây vũ trụ. Đây là pho tượng nhận được nhiều sự quan tâm của du khách khi đến thăm khu Di tích. Tượng Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An làm bằng đồng, cao 2m3, nặng khoảng 3 tấn, do các nghệ nhân làng đúc đồng nổi tiếng Ngũ Xã đúc vào năm 2003.
https://i.postimg.cc/9FgcMf5R/T-ng-th-Th-y-CVA-t-i-V-n-Mi-u.jpg
Tượng thờ Thầy Chu Văn An ở Văn miếu Quốc tử giám
b/ Tiều ẩn cổ bích – Đền thờ Thầy Chu Văn An (Phượng Sơn Linh Từ)
Đền thờ thầy Chu Văn An tọa lạc trên núi Phượng Hoàng. Còn được gọi là “Phượng Sơn linh từ”. Đền được xây dựng trên một thế đất cao, rộng và linh thiêng. Đền được xây dựng theo thuyết phong thuỷ của người xưa, phía trước có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phượng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì lân và núi Phượng Hoàng như sải cánh của con chim phượng.
Đền thầy Chu Văn An kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, dựa theo kiến trúc thời Nguyễn, chồng diêm hai tầng tám mái. Nghệ thuật trang trí của đền theo đề tài tứ linh, tứ quý: long, ly, quy, phượng, tùng, cúc, trúc, mai. Các bức y môn sơn son thiếp vàng trang trí theo hình tượng: rồng chầu hoa cúc mãn khai.
Đền thờ Chu Văn An gồm năm gian tiền tế và một gian Hậu cung. Có 5 ban thờ: Phía trong Hậu cung đặt tượng thờ thầy giáo Chu Văn An, tượng bằng đồng, nặng 100kg trị giá 79 triệu đồng do ĐH Kiến trúc công đức, trên là bức đại tự với hàng chữ “ Vệ dực chính đạo”. Ban tiếp theo là thờ gia tiên họ Chu, bên trên có bức đại tự “ Chính học thuần hành”. Ban chính giữa là ban công đồng, có 3 bức đại tự: Bức ở giữa “ Chấn phấn Nho học”; bức bên trái là “Minh thánh đạo”; bức bên phải là “Nhân trí dũng” và toàn bộ hoành phi câu đối ca ngợi đức độ của thầy Chu Văn An. Ban phía bên tay phải từ trong ra là ban thờ học trò thầy Chu Văn An, ban bên trái thờ Sơn thần Phượng Hoàng.
Kiến trúc giai đoạn một bao gồm các hạng mục công trình: đền chính, sân thượng, các bậc đá, hai đuôi rồng đá, sân chung với hai nhà giải vũ, sân hạ và hai nhà bia. Đặc biệt hai rồng đá kiến trúc theo kiểu rồng thời Trần chắc, khoẻ, các bậc đá đều xây dựng theo kiểu thất trảm sớ ( có 7 bậc).
Lăng mộ Thầy tọa lạc trên mỏm núi Phượng Hoàng giữa rừng thông bát ngát, cảnh quan thiên nhiên khu lăng mộ thầy Chu Văn An khá đẹp.
Di tích đền thờ thầy giáo Chu Văn An được khôi phục, tôn tạo lại vào năm 1997, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân xa gần cũng như giáo giới trong cả nước . Kiến trúc xây liền khối theo hình chữ nhật theo hướng Đông Nam. Trang trí mỹ thuật chính tập trung khắc hoạ hình tượng: Cuốn sách và giải bút nhọn thể hiện cho đức nghiệp thanh cao, trong sáng vì sự nghiệp giáo dục đất nước của thầy Chu Văn An.
Điện Lưu Quang nằm bên phải đền về phía tây – tương truyền là nơi Thầy dạy học khi về núi Phượng Hoàng.
Phong tục - Lễ hội: (Theo âm lịch)
Đền thờ thầy Chu Văn An đã trở thành một địa chỉ tâm linh cho các thầy cô giáo, các em học sinh và nhân dân cả nước. Vào những ngày lễ du khách về chiêm bái đền Thầy rất đông. Nhiều sở giáo dục, phòng giáo dục, nhiều trường đến đền Thầy làm lễ dâng hương, phát thưởng, xin chữ thánh hiền cho giáo viên và học sinh.
- Lễ hội mùa xuân: diễn ra vào tháng Giêng
- Lễ hội mùa thu: diễn ra vào tháng 8 – mùa khai giảng. (lễ chính ngày 25 tháng 8 – Sinh nhật Thầy)
- Lễ hội Về Nguồn: diễn ra vào 26 tháng 11 – tưởng niệm ngày mất của Thầy.
- Trước khi vào mùa thi khách đến lễ Thầy xin lộc thi cử rất đông
- Những năm gần đây, Ngày 20 – 11, rất nhiều du khách đến dâng hương Thầy.
https://i.postimg.cc/rFNtYx46/n-th-Th-y-CVA.jpg
Đền thờ Thầy Chu Văn An ở núi Phượng Hoàng
c/ Đền thờ Thần hoàng làng
Tại huyện Thanh Trì, Hà Nội danh nhân Chu Văn An được thờ chủ yếu ở xã Thanh Liệt và xã Tam Hiệp. Xã Thanh Liệt có 2 di tích thờ thầy Chu Văn An là đền Chu Văn An và miếu Thổ Kỳ thờ thầy Chu Văn An và thân mẫu.
Xã Tam Hiệp cũng có 2 di tích thờ thầy Chu Văn An là chùa Huỳnh Cung và đình Huỳnh Cung xây trên nền ngôi trường xưa kia mà thầy mở ra để dạy dỗ học trò. Bên cạnh huyện Thanh Trì ở Hà Nội còn có chùa Hương Viên nằm góc ngã tư giao nhau giữa phố Lò Đúc và phố Trần Xuân Soạn, quận Hai Bà Trưng thờ thầy Chu Văn An như vị Thành hoàng làng...
Sau khi thầy Chu Văn An qua đời các học trò trước đây của thầy đã cùng nhau lập nên đền thờ thầy ở ngay chính ngôi trường cũ tại Huỳnh Cung. Bên cạnh bài vị thờ công, triều lệ còn đặt bài vị của 61 văn thân ở huyện Thanh Trì
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi đình đã bị phá huỷ hoàn toàn, nền móng của đình vẫn còn một trụ cột, rùa đá, bia đá. Dân làng còn cất giữ được đồ thờ thầy Chu Văn An như: 2 mũ cánh chuồn, 1 dải áo, 1 áo long cổn, 1 áo thụng hồng, 1 đôi hài, 1 ngai thờ, 1 trùy đồng, 6 sắc phong, một cuốn thần tích được lập từ thời Lê Hồng Đức. Tất cả đều là nguyên bản. Nhân dân Huỳnh Cung đã tu sửa ngôi đình xứng đáng là nơi lập nghiệp của danh nhân văn hoá Chu Văn An, người con của quê hương Thanh Liệt, Thanh Trì.
Tại quê hương thầy ở thôn Văn có đình thờ thầy gọi là Đình Nội. Ban đầu đình vốn là một ngôi đền cổ, đến thời Lê Trung Hưng trở thành văn chỉ làng Thanh Liệt thờ các vị khoa bảng của làng Thanh Liệt. Theo bia “Tiên hiên bi kí” dựng năm Ất Dậu niên hiệu cảnh Hưng (1765) thì đình Nội ban đầu thờ thầy Chu Văn An và tằng tôn của thầy là Chu Đình Bảo, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Giáp Thìn (1484). Văn chỉ cũng thờ con trai thầy Chu Văn An là Chu Tam Tỉnh thi đỗ khoa Ngự thí năm Tân Hợi, làm quan đến chức Hàn lâm trực học sĩ, tả hình viện đại phu và Lí Trần Thản, thi đỗ tiến sĩ khoa Ất Sửu, làm quan đến chức Tả tư giảng, sau khi mất được truy tặng Binh bộ thượng thư.
Đền thờ thầy Chu Văn An được dựng ngay sau khi thầy mất thời Trần. Do đình nằm trong khu đất hẹp nên vị tú tài người làng là Vũ Huy Diệu đã cùng dân trong làng chọn nơi thoáng rộng, (khu vực hiện nay) để xây lại.
Đền thờ thầy Chu Văn An có hình chữ công với 3 nếp nhà tiền tế rộng 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì làm kiểu vòm bán nguyệt. Hậu cung gồm 3 gian nhỏ, vì làm kiểu “chồng giường, giá chiêng”, mặt bằng theo kiểu 4 hàng ngang, vì làm kiểu “chồng giường”, chạm khắc hình tứ linh, tứ quý.
Đền thờ thầy Chu Văn An đã được Bộ Văn hóa. Thông tin xếp hạng di tích văn hóa lịch sử ngày 21.1.1989.
Vị Thành hoàng làng – nơi gửi gắm ước mơ học hành của bao đứa trẻ học trò
Lâu nay, nói đến phố Lò Đúc, là nhiều người nghĩ đến con phố nhỏ êm đềm có những hàng cây sao cao vút, tán lá giao nhau, là nơi trú ngụ lý tưởng của những đàn cò. Ở phố Lò Đúc còn có một di tích gắn liền với lịch sử phát triển của phố là chùa Tổ Ong (tên chữ là Linh Ứng Tự) thờ Nguyễn Minh Không, ông tổ nghề đúc đồng.
Cũng tại chùa Tổ Ong còn có tấm bia thời Tự Đức (1857) cỡ 1x1,7m, diềm bia trang trí hoa cúc, dây leo. Bia có tên “Ký sám hối gia tiên bi ký” (bia ghi việc gửi giỗ cho gia tiên) có 1.300 chữ Hán, khắc theo thể chữ chân, sắc nét và còn nguyên vẹn.
Tại sao đang nói về thầy Chu Văn An lại nói về chùa Tổ Ong và tấm bia “Ký sám hối gia tiên bi ký” ở đây, bởi tấm bia đã cung cấp một số địa danh như phố Tràng An, phố Phương Viên (gọi theo tên làng cổ Phương Viên) mà nay khi làng trở thành phố đã không còn.
Làng cổ Phương Viên không còn, nhưng chùa Đức Viên (tên chữ là Hồng Đức Tự) vốn là một ngôi chùa của thôn Hương Viên (sau đổi thành Phương Viên rồi Đức Viên) thì vẫn còn. Thôn này vốn thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội; được thành lập từ đầu thế kỷ 19 dưới triều vua Minh Mệnh.
Chùa nằm trải rộng ở diện tích góc ngã tư giao nhau giữa phố Lò Đúc và phố Trần Xuân Soạn, nhưng cổng chùa hiện nay mở ra phía đầu phố Trần Xuân Soạn, gần ngay phố Lò Đúc. Các cụ già ở đây kể lại, xưa kia đối diện cổng chùa (tức đầu ngã ba phố Lê Ngọc Hân — Trần Xuân Soạn) xưa kia có ngôi đình làng Phương Viên, bên trong thờ thầy Chu Văn An.
Đình này bị dỡ bỏ vào thế kỷ 20 dưới thời Pháp thuộc, bài vị cùng nhiều đồ tế khí được nhân dân đưa sang chùa để tiếp tục thờ. Hiện nay, hệ thống tượng tròn trong chùa Đức Viên gồm trên 50 pho. Đáng chú ý là các bộ tượng Tam Thế Phật, A Di Đà Tam tôn, Tứ Thiên vương…. Tại tiền đường còn có một ban thờ danh thần Chu Văn An như Thành hoàng làng Phương Viên và nhà chùa còn lưu giữ được một bản thần phả sao chép sự tích về ngài.
Người viết bài này là cư dân của khu phố Lò Đúc – Trần Xuân Soạn – Lê Ngọc Hân đã lâu và từ nhỏ đã quen nghe tiếng chuông chùa Đức Viên ngân nga, đã quen vào các ngày sóc, vọng hoặc trước kỳ thi được người lớn dẫn đến chùa thắp hương trên bàn thờ “Đức Thánh Chu” theo cách gọi của người dân trong phố, để xin thầy giáo Chu Văn An phù hộ cho sở học thông suốt, sáng láng.
Lớn lên chút nữa, có ý thức tìm tòi, đi hỏi người già rồi cả sư cụ trụ trì rằng vì sao danh sư Chu Văn An lại trở thành Thành hoàng làng của làng Phương Viên xưa, mỗi người lý giải một kiểu nhưng đều chung một ý rằng nơi đây là trang ấp mà thầy được nhà vua ban cho làm nơi ở trong thời gian thầy ra kinh đô giữ chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám trong gần 30 năm. Tiếc rằng, bản thần phả sao chép sự tích mà chùa còn lưu giữ cũng không nói gì đến lý do vì sao thầy được dân thờ như Thành hoàng làng…
Lịch sử vốn vậy, luôn chứa trong mình những bí mật, để ngàn đời sau hậu thế vẫn mãi đi tìm và ngưỡng vọng. Chỉ biết rằng người viết bài này cũng như rất nhiều lớp lớp trẻ con đã sinh ra và lớn lên trong đất làng Phương Viên xưa đều có chung một niềm tự hào rằng Thành hoàng làng mình là danh sư Chu Văn An, là “Vạn thế sư biểu – Người thầy tiêu biểu của muôn đời” của dân tộc Việt Nam.
Để mỗi khi đến chùa thắp hương lạy Phật, cúi đầu trước bàn thờ danh sư, ra về lại được cụ trù trì tặng cho cây bút “lộc của thầy giáo”. Có lẽ rằng đây cũng là một trong số ít ngôi chùa, nếu không nói là độc nhất ở nội thành Hà Nội chia lộc bằng bút thay cho cỗ oản đỏ. Để rồi cây bút đó đã theo bao đứa trẻ viết nên ước mơ học hành, đỗ đạt ở đời…
d/ Ngoài ra còn có ban thờ thầy Chu Văn An ở 27 xã có môn sinh của Thầy
3/ Giai thoại về Thầy Chu Văn An
a/ Huyền thoại về thầy Chu Văn An: Dạy học cho con trai Thủy thần
Khi thầy Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu, thầy bèn cho người dò xem thì trò đó cứ đến khu đầm Đại là biến mất. Thầy biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong thầy tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: “Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho”. Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Thầy được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Đây là một giai thoại về Thầy để nói rằng tài đức của thầy có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của thầy lúc đương thời là rất lớn.
b/ Dâng thất trảm sớ
Thời vua Trần Dụ Tông là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần, và cũng chính lúc này thầy Chu Văn An dâng Sớ xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên gian thần, để mong cứu vãn nhà Trần. Tuy chính sử không nêu rõ , cho đến nay nội dung tờ sớ đó không ai biết nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng nhiều.
Theo cuốn "Vương triều sụp đổ", tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ - 2006, thì bảy tên gian thần bị thầy Chu Văn An xin nhà vua xử trảm, như sau:
1. Hoạn quan chi hậu cục Mai Thọ Đức, kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân. Để nhiều người chết trẻ, chết già vì mòn mỏi trong cung thất; lại bày ra các trò dâm ô trác táng dẫn Hoàng thượng vào con đường vô đạo.
2. Trâu Canh, viên ngự y phạm tội làm cho Hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi, lại bày trò phục dương cho bề trên khi 15 tuổi. Y đã bắt cóc 21 đứa trẻ khỏe mạnh con nhà lương dân, giết đi lấy mật làm thang cho bài thuốc hồi dương của quan gia. Rồi y bày trò cho quan gia thông dâm với chị ruột mình, nói là phương thuốc chữa trị.
Trong khi chữa trị cho quan gia, y lại thông dâm với cung nhân của chính quan gia. Trâu Canh là người Hán, cháu nội Trâu Tôn đi theo quân nhà Nguyên vào xâm lược Đại Việt, năm Ất Dậu (1285) thất trận bị quân Đại Việt bắt, y đã xin hàng, lại xin được cư trú. Nay Trâu Canh lộng hành, dẫn dắt đức vua vào con đường thương luân bại lý.
3. Bùi Khoan, Chính chưởng phụng ngự. Y bày trò cờ bạc rượu chè dơ dáy ngay trong cung thất, dẫn đức vua vào mê lộ, bê tha như đám dân đen ngu muội.
4. Văn Hiến hầu can tội gây bè đảng khiến các đại thần chia rẽ, ngờ vực lẫn nhau, làm cho đức vua khó phân biệt người ngay kẻ nịnh.
5. Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương, xảo trá, dẫn vua vào con đường ăn chơi xa xỉ, tới cạn kiệt quốc khố.
6. Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu đồng lõa với Nguyễn Thanh Lương tìm đủ mọi cách tăng thu thuế khóa, tăng các sắc thuế từ thượng cổ chưa từng có, để bòn rút của dân, lấy tiền chi vào các cuộc ăn chơi trác táng của hoàng thượng. Kể cả những năm mất mùa đói kém, dân chết đói đầy đường, chúng cũng không tha giảm.
7. Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự, bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí đã cũ hỏng vẫn không chịu thay thế, để lấy tiền công bỏ túi. Y sao nhãng việc luyện tập canh phòng biên cương phía Bắc, phía Nam gần như bỏ ngỏ. Hiện thời Chiêm Thành đang ráo riết nhòm ngó miền châu Hóa.
Lũ gian thần này mượn danh Hoàng thượng để làm các việc, mà nhìn bề ngoài thiên hạ cứ ngỡ là chúng làm vì Hoàng thượng. Nhưng kỳ thực, các khoản chi tiêu cho Hoàng thượng chỉ một phần, còn vào túi chúng tới chín phần.
Vì vậy thầy giáo Chu Văn An sau khi vạch tôi đã viết, “Để giữ nghiêm phép nước, nối dòng đại thống từ Thái tông cao hoàng đế tới nay, xin bệ hạ cho chém đầu bảy tên gian thần trên, và tịch thu sản nghiệp của chúng, sung quốc khố, để làm gương răn đe kẻ khác".
Dù chỉ là huyền sử nhưng với những tên người cụ thể, với những cáo trạng như vậy cũng là một “giải mả thú vị”, thoả mãn lòng dân.
Điều quý hơn hết là dân ta đã một lòng ca ngợi và xem thầy như sao Đấu, sao Khuê, Cao Bá Quát cũng từng viết:
"Thất trảm yêu ma phải rợn lòng Trời đất soi chung vầng hào khí Nước non còn mãi nếp cao phong"
c/ Đất nước ghi nhận
Đối với lịch sử nước nhà: Thầy được người đời dành tặng danh hiệu cao quý “Vạn thế sư biểu”.
Đại Việt Sử ký toàn thư đánh giá thầy là Ông tổ của các nhà nho nước Việt.
Thầy Chu Văn An được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”.
Nhiều đường xá, trường học được đặt theo tên gọi của thầy “Chu Văn An”
Để ghi nhận công đức của Thầy Chu Văn An, nhiều nơi trên cả nước đã đặt đền thờ Thầy.
4/ Những thông tin về Thầy Chu Văn An từ Khí công Tâm linh
- Thầy Chu Văn An là người thầy đầu tiên đã độ trì dạy bảo thầy Huệ Tâm trong nhiều kiếp, đã độ trì dạy bảo thầy Huệ Tâm rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Thầy Chu Văn An là người có rất nhiều kỉ niệm đẹp với thầy... “Có lần thầy lên làm việc ở núi Phượng Hoàng xong, hơn bốn giờ chiều thầy xin Thầy Chu Văn An cho thầy sang ngủ bên Côn Sơn, Thầy Chu Văn An nói: “Thôi đã lên đây thì ở đây ngủ với Thầy một đêm”…Thầy NQT súc động nói nhỏ lại: “Chỉ có Cha mới nói với con như vậy!”.
Tại ngày lễ kỷ niệm Thầy Chu Văn An về trời năm 2020, Thầy Chu Văn An cũng đã dành câu nói rất tình cảm cho Thầy Huệ Tâm “Ta tự hào vì có một người trò như con. Ta tự hào vì có một người Thầy như con”
Một số điều ghi trong nhật ký của thầy Huệ Tâm (nguồn: KCTL)
Ngày 26/06/GT(11/08/04)
* Thầy Chu Văn An nhập vào cô Sở để nói với thầy Nguyệt Quang Tử:
“Ta sẽ truyền Đạo cho con và dạy con làm thuốc chữa bệnh.”
Ngày 03/11/GT (14/12/04)
* Thầy Chu Văn An dạy trận…rồi Thầy nói:
“Con phải viết lại các sự tích và hiểu biết về Bát Cổ”.
Ngày 01/03/AD (09/04/05)
Một Phượng Hoàng cặp một thanh đoản kiếm ở mỏ đem về đưa cho tôi. Tôi biết ngay đây là kiếm thầy Chu Văn An giao cho nên tôi nói:
- Bây giờ con có rất nhiều Kiếm, con không nhớ được là con có bao nhiêu kiếm và khi cần dùng thì gọi kiếm gì vào lúc nào!
Thầy gửi mấy chữ về: Đây là “Vạn Kiếm quy Tâm”. Tôi ngộ ra rằng, “bao nhiêu kiếm cũng không quan trọng, dù có là vạn kiếm thì khi cần dùng kiếm nào đều do tâm tôi quyết định tất cả”.
Ngày 26/05/AD (02/07/05)
* 13h30 tôi có mặt ở Đền thờ Thầy Chu Văn An
Quì trước Thầy tôi nói:
- Hôm nay Nguyệt Quang Tử xin đem roi về quỳ dưới chân Thầy để nhận tội vì chỉ sau một thời gian ngắn con đã để lớp học của con xảy ra nhiều chuyện xấu.
Thầy đánh tôi ba roi, nói một câu Thầy lại đánh tôi một roi:
- Roi thứ nhất là để thể hiện sự nghiêm khắc.
- Roi thứ hai là phạt về tội quá tin học trò.
- Roi thứ ba là để ghi nhớ đây là một bài học.
* 14h15 tại Linh mộ Thầy:
- Tôi kêu ca, phàn nàn với Thầy về việc không nhìn, không nghe được.
Thầy nói: “Còn phải mất một thời gian dài nữa, thay mới đường Chẩm - Ấn cho con thì chưa được, mà sửa lại thì cũng khó!”
Nói xong Thầy đọc tặng tôi bài thơ:
THIÊN BẢO
Ơn Cha, nghĩa Mẹ, công Thầy
Nguyệt Quang Tử đã từ đây trưởng thành
Ánh dương soi tỏ công danh
Cứu dân giúp nước tiếng lành vang xa
Ngày 19/10/AD (20/11/05)
Khi đi chúc mừng Thầy nhân ngày 20/11, Thầy Chu Văn An nói với Nguyệt Quang Tử: “Thầy muốn anh Hòa dạy học trò, các con và tất cả những người cấp dưới hãy đi đúng con đường mà mình đang đi. Còn những người đi sai đường không những không phải học trò của ta mà Thầy cấm không được nhắc đến tên Thầy . Thầy định không nói nhưng là ngày vui nên phải nói, lớp học trò này đạt thành công quá mức so với yêu cầu. Kể cả người thực và người phần linh rất xuất sắc. Thầy nghĩ rằng không ngờ lại có thể làm được như vậy”.
Ngày 07/04/BT (04/05/06)
Tại vườn hoa khu chung cư Linh Đàm.
Nguyệt Quang Tử nói với Thầy Chu Văn An:
- Thưa thầy cho đến nay con vẫn không nhìn được, tại sao lại như vậy? Con sẽ xin từ chức!…
Thầy Chu Văn An nói:
- Người trần hay có tính kiêu căng…Nếu con xin từ chức thì do con quyết định. Việc của con không ai có thể làm thay được…Nếu con nghỉ thì có khi ta cũng phải nghỉ…Đúng là việc con không nhìn thấy được là do phái tà nó phá quá nặng “Con bị tàn phế hơn cả những người tàn phế”. Con làm việc được, kể cả con còn tồn tại được ở đời thực là nhờ ở tâm con sáng. Có thể không bao giờ con nhìn được!
Nguyệt Quang Tử nói:
- Con xin lỗi các Thầy, các vị bề trên. Con đã biết rõ như vậy thì con xin hứa: “Bằng chính sự tàn phế của con, con sẽ chứng minh cho phái tà biết, không một sức mạnh nào, không một sự tàn phá nào có thể cản được con đi trên con đường đã chọn”.
Thầy Chu Văn An nói:
- Ta biết con không bỏ chúng ta mà… Con cởi áo ra.
Khi Nguyệt Quang Tử cởi áo ra Thầy Chu Văn an đã dùng một cái bút lông to, từ trên không Thầy viết một chữ “Tâm” rất to lên ngực Nguyệt Quang Tử.
Ngày 05/01/2005
* Lúc 9h30’.
Đi Côn Sơn cùng Phan Thay (26/11 là ngày giỗ Thầy).
* Lúc 14h - ở Đền Thầy Chu Văn An.
Thầy dạy:
- Chỉ tổ chức buổi lễ giỗ Thầy đơn giản thôi.
- Thầy giao cho Nguyệt Quang Tử dạy một lớp học trò, Thầy nói:.
“Dạy học trò phải cho học lễ trước, dạy có bài bản thứ tự từ dễ đến khó…”
- Thầy cho một phương tiện để đọc sách: Nhật Nguyệt Quang Thư.
Khi đọc sách mà dùng Nhật Nguyệt Quang Thư thì các trang sách cứ lật ra liên tiếp cho đến hết còn nội dung thì bắn thẳng vào não bộ. Pháp bảo này có thể đọc được mọi loại chữ và cách làm việc giống như nhập dữ liệu vào máy tính.
- Xong việc Thầy dặn lên linh mộ ngay, có việc.
Lên đến linh mộ thì gặp Ông Định và Ông Duyệt đã ở đó.
- Một góc mộ bên trái phía trước có một ổ tà: Khí đen tụ về đấy và đất thực cũng đã bị sụt một ít. Nguyệt Quang Tử đã dùng linh quang đuổi tà đi, rồi đắp lại đất. Bọn tà bỏ chạy làm tắt luôn 5 nén hương đời thực vừa mới thắp, chúng vừa chạy vưà đánh vào vía học trò đang đi cùng, học trò phải chạy lại vây quanh Nguyệt Quang Tử.
- Ông Định nói Thầy Chu Văn An mới dạy:
a/ Dùng mật gấu trắng Bắc Cực nhỏ vào vùng bệnh (đã bị làm rỗng) để tạo môi trường cho tế bào phôi và gen mới phát triển thật nhanh điền đầy vùng rỗng. Thay thế ở vùng nào thì phải điền tế bào phù hợp
với vùng ấy.
b/ Hai ngón giữa để lên 2 huyệt Đầu Duy, bàn tay để ngửa. Thanh Long thần xuất hiện ở lòng bàn tay trái, Phượng hoàng xuất hiện lòng bàn tay phải. Long + Phượng phun châu nhả ngọc vào Hạch Tùng.
- Khi những người học trò, những người bệnh nhân, bạn bè, anh em trong thế giới trần tục đã góp tiền giúp đỡ thầy Huệ Tâm xây dựng một Ngôi nhà chung của Môn phái Khí công Tâm linh thuộc Thiền phái Trúc lâm Yên tử đặt tại Linh địa Côn Sơn thì Thầy Chu Văn An là người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng phong thủy cho Ngôi nhà này. Khi Thầy Huệ Tâm làm bàn thờ cho Ngôi nhà chung, về cơ bản bàn thờ này do thầy Chu Văn An thiết kế Thầy cho kích thước về độ dài, rộng bao nhiêu, bố trí trên bàn thờ như thế nào. Riêng chiều cao thì Thầy Chu Văn An bảo Thầy NQT tính như thế nào cho hợp lý.
- Để chuẩn bị cho Lễ bốc bát hương vào sáng ngày 20/9/2015(tức ngày 8/8 âm lịch năm Ất Mùi), vào đêm 19/9/2015 (tức ngày 7/8 âm lịch), Thầy Chu Văn An đã trực tiếp giao "Linh Văn" để Thầy NQT dùng Linh thần bút khắc toàn bộ Linh Văn này lên Ngôi nhà chung.
- Thầy Huệ Tâm đã có thơ tặng Thầy Chu Văn An
PHI THUYỀN ĐANG BAY
(Kính tặng thầy Chu Văn An)
Nhớ buổi ấy con về nơi Linh mộ,
Được nghe Thầy kể chuyện ngày xưa:
“Thuở hai đứa chúng bay còn để chỏm,
Nhà thì nghèo chỉ cơm với tương dưa
Có những hôm nắng nóng giữa buổi trưa,
Cả hai đứa trốn đi trèo ổi.
Nghe Thầy gọi, lòng run, chân bước vội…
Thầy đã mắng: “Hai đứa bay có tội”
Thước kẻ dài vụt xuống bốn bàn tay…
Nước mắt rưng rưng con chẳng dám nghĩ sai,
Chỉ ân hận đã để Thầy khiển trách.
Đánh xong rồi, Thầy đưa cho quyển sách,
Hai đứa theo Thầy đến lớp học văn.
Lịch sử nước nhà, lịch sử nhân gian,
Tròn xoe mắt uống lời Thầy từng chữ…”
Lời Thầy dậy các con phải nhớ:
“Văn võ song toàn đền nợ nước non.”
Dòng suối nhỏ từ Phượng Hoàng sơn,
Theo sông lớn đi ra biển cả.
Bước lên thuyền lòng vui khôn tả,
Vượt trùng dương lên cả không trung.
Thấm thoắt thế mà đã mấy trăm năm,
Thần Y Dược vẫn dõi theo từng bước.
Thủy Cốc Tiên Sinh mới vừa đây còn nhắc:
“Các con từ một gốc sinh ra,
Phải yêu thương chung sống hiền hoà,
Cùng tu luyện, cùng giúp nhau tiến bộ.”
Lời Thầy dạy chúng con vẫn nhớ,
“Văn võ song toàn đền nợ nước non.”
Đến hôm nay đường đã mở thênh thang,
Lòng đã nguyện: Chỉ con đường Chính đạo
Trí Huệ – Từ bi, phá tan cường bạo
Diệt ác, trừ gian, khuyến tạo thiện căn.
Thế giới vô biên nào có vách ngăn,
Ngoài Tổ Quốc, con còn nhân gian bè bạn.
Xa hơn nữa là không gian vô hạn,
Linh Ngọc dẫn đường chỉ lối con đi.
Giữa “hố đen” đâu có sợ hiểm nguy,
Thiên Vương Kiếm cắt nó ra từng lớp.
Ai có biết trong lòng cái ác,
Điểm sáng còn đây, mầm thiện vẫn còn.
Thái Cực Đồ quay trong không gian,
Xoáy vào giữa, nhân mầm non lên mãi.
Cứ nhân lên sinh thành Bát Quái,
Thành công rồi trắng đã thắng đen.
Trên phi thuyền đi tuần tiễu không gian,
Có Linh Ngọc dẫn đường đi phía trước,
Thánh Mẫu và Đức Mẹ cùng giơ tay ban phước
Có cả hai ông dáng quắc thước, đang cười.
Từ rất xa con đã nhận ra rồi,
Ông Ké già và Huyền đô cung Lão Tử.
Đây lời dậy của Quang Minh sư phụ
“Nhiệm vụ nặng nề, phải cố gắng nghe con.”
Phi thuyền Vòng đang bay trong không gian,
Mà phía trước là sắc vàng chói lọi.
- Thầy Huệ Tâm kể có lần lên núi Phượng Hoàng làm việc mấy ngày , khi từ Côn Sơn sang núi Phượng Hoàng, Thầy nói với Thầy Chu Văn An: "Con chào Thầy, chúng con về". Thầy Chu Văn An chỉ tay lên sườn núi rồi nói: "Con lên tát giếng đi", mặc dù hôm đó trời còn lạnh nhưng Thầy Huệ Tâm vẫn vâng lời Thầy Chu Văn An và lên núi tát giếng. Thầy cùng với H. (là học trò đi cùng Thầy hôm đó) đi lên núi và bắt đầu múc từng gàu nước từ dưới giếng lên để thau rửa giếng, đến khi xong việc, Thầy Chu Văn An nói: “Từ nay trở đi, con không cần phải lên núi để lấy nước mắt Phượng Hoàng nữa, mà hễ khi nào con muốn, con cứ cầm vào cốc nước và nghĩ là chuyển thành nước mắt Phượng hoàng thì lập tức cốc nước ấy sẽ là nước mắt Phượng hoàng".
- Đền thờ Thầy Chu Văn An là một trong 8 Bát cổ và là thứ tự thứ 2 phải đi trong danh sách 8 Bát cổ. Đền thờ Thầy Chu Văn An có tên là Tiều ẩn cổ bích. Thầy Huệ Tâm khi tìm về Bát cổ đã có thơ rằng:
Cổ bích ông tiều ẩn nơi đây
Phượng hoàng đứng đó dưới trời mây
Sớ dâng thất trảm lòng chưa trọn
Vạn năm cùng với nước non này.
- Khi thắp hương chúng ta khấn Thầy Chu Văn An thì phải khấn đầy đủ là: "Thần Y Dược - Tôn Sư Đại Học Sĩ - Tư Nghiệp Quốc Tử Giám - Thủy Cốc Tiên Sinh - Bát Cổ Nhị Hoàng Hoa". Khoảng 700 năm sau khi nghỉ việc triều chính, Thầy Chu Văn An không tham gia chính quyền tâm linh nữa; nhưng khi học trò là Thầy NQT khẩn khoản mong Thầy giúp đỡ thì Thầy Chu Văn An đã làm Hiệu trưởng Đại học Huyền Tâm; khi công việc bộn bề Thầy lại tham gia chính quyền và hiện tại Thầy Chu Văn An đang đứng đầu Thần giới.
- Thầy Chu Văn An chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Minh Phật
- Trong không gian Thầy Chu Văn An không chỉ là một nhà giáo mà thầy còn là một thần y.
- Hiện tại thầy còn đảm nhiệm thêm việc dậy lớp học trò Linh Tâm Hội Tụ. Ngày 19/6/2014 lúc 16h25 khi các con lớp Linh Tâm Hội Tụ dâng hương tại Nhật Quang Điện Thầy Chu Văn An đã về, Thầy dậy:“ Hôm nay ta thay lời của Thầy Huệ Tâm, muốn nói với các con: Đã là Thầy thì muôn đời vì Trò, đã là Trò thì phải muôn đời kính Thầy. Các con chỉ học “chữ Kính – chữ Nghĩa” như vậy là đủ. Học được hai chữ ấy thì thành người rồi. Đợt này cứ vừa học, vừa chơi như thế nhé. Ta chỉ dậy như vậy!”
- Ngày 26/11 âm lịch hàng năm, Thầy Huệ Tâm đều cho tổ chức kỷ niệm ngày Thầy Chu Văn An về trời.
https://i.postimg.cc/6qLL0SKg/46712365192-0033d15638.jpg
Dâng hương kỷ niệm ngày Thầy Chu Văn An về trời tại NNLĐ(NA:KCTL)
https://i.postimg.cc/rmqp4YhK/Nh-t-Nguy-t-Linh-ng.jpg
Nhật Nguyệt Linh Đường (NA: KCTL)
./.
/
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.